Phóng viên: Tình trạng bạo lực học đường hiện nay vẫn xảy ra ở một số địa phương vì vừa qua có rất nhiều trường hợp học sinh đánh nhau với mức độ khiến nhiều người "phải suy nghĩ". Khi đọc và xem những Clip học sinh đánh nhau như vậy, Thứ trưởng nhìn nhận về về vấn đề này thế nào? Thứ trưởng Nguyễn Thị Nghĩa: Có thể nhận thấy tình trạng bạo lực học đường hiện nay đang diễn ra hết sức phức tạp, chỉ vì những chuyện nhỏ nhặt thường ngày mà các em đã ứng xử với nhau thiếu lòng nhân ái, trái với chuẩn mực đạo đức xã hội, truyền thống đạo lý của dân tộc Việt Nam. Không chỉ là các em học sinh nam đánh nhau, mà còn xảy ra khá nhiều vụ học sinh nữ đánh nhau hội đồng, với những cử chỉ thô bạo, nhiều vụ việc đã gây ra hậu quả rất nghiêm trọng. Bên cạnh đó, nhiều học sinh thiếu ý thức, vô cảm trước những hành vi bạo lực, không can ngăn mà còn sử dụng điện thoại di động để quay video clip và đưa lên mạng xã hội như một sự cổ súy cho những hành vi bạo lực này. Tính chất và mức độ nghiêm trọng của một số vụ việc bạo lực xảy ra ở trong và ngoài nhà trường là một dấu hiệu về sự sa sút đạo đức, lối sống, văn hoá ứng xử và yếu kém về kỹ năng sống của một bộ phận học sinh hiện nay.
Những vụ việc đó đã và đang làm đau lòng những người làm giáo dục và gây lo lắng, bức xúc trong xã hội. Tình trạng bạo lực học đường làm ảnh hưởng tới môi trường giáo dục, môi trường xã hội, gây mất an ninh trật tự, an toàn xã hội, vì vậy chúng ta cần phải có biện pháp quyết liệt để ngăn chặn, hạn chế và tiến tới chấm dứt nó. Thưa thứ trưởng, sau mỗi sự việc trên, Bộ GD&ĐT đã có những chỉ đạo thế nào tới các địa phương có học sinh đánh nhau? Thứ trưởng Nguyễn Thị Nghĩa: Ngay khi tiếp nhận được các thông tin liên quan đến học sinh đánh nhau, Bộ đã liên hệ trực tiếp và có văn bản chỉ đạo Sở GD&ĐT khẩn trương kiểm tra nắm tình hình, phối hợp với các cơ quan chức năng địa phương xử lý vụ việc theo quy định pháp luật, đảm bảo đủ sức răn đe và giáo dục học sinh. Đồng thời, phối hợp với các cấp, các ngành xử lý nghiêm khắc các cán bộ, giáo viên thiếu tinh thần trách nhiệm, buông lỏng trong quản lý, giáo dục học sinh, để xảy ra các vụ việc học sinh đánh nhau; tăng cường sự phối hợp liên ngành và phối hợp với gia đình trong việc quản lý, giáo dục học sinh.
Tổ chức ổn định tình hình nhà trường, ổn định tâm lý cho học sinh, thường xuyên quan tâm, nắm bắt tình hình tư tưởng, đạo đức học sinh, tổ chức rút kinh nghiệm trong công tác quản lý, có giải pháp ngăn chặn, không để tái diễn tình trạng bạo lực học sinh trên địa bàn và báo cáo kịp thời diễn biến vụ việc để chỉ đạo, xử lý. Nhiều ý kiến cho rằng, tình trạng bạo lực học đường xảy ra, phần quan trọng nhất từ phía nhà trường là chưa chú trọng tới giáo dục đạo đức học sinh; cần có nhiều hoạt động giáo dục quan tâm tới tâm lý của các em, sự sâu sát của giáo viên chủ nhiệm hơn nữa...và cả sự vào cuộc cao hơn là trách nhiệm của chính quyền địa phương, Thứ trưởng nghĩ sao? Thứ trưởng Nguyễn Thị Nghĩa: Bạo lực học đường xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trước hết là các em học sinh chưa được giáo dục đầy đủ về đạo đức, nhân cách, lối sống, chưa có đủ kỹ năng để ứng phó và giải quyết các tình huống xảy ra hàng ngày; sự thay đổi tâm sinh lý lứa tuổi, luôn muốn khẳng định mình, cũng có thể dẫn đến những hành vi lệch lạc, thiếu kiểm soát, thiếu kiềm chế. Nguyên nhân từ giáo dục gia đình, một số bố mẹ thiếu quan tâm đến con cái, không thường xuyên theo dõi, nắm bắt tâm tư nguyện vọng, những diễn biến tâm lý, tình cảm của con cái để kịp thời uốn nắn những lệch lạc, hướng con em theo một con đường tốt đẹp. Nguyên nhân từ phía xã hội, mặt trái của nền kinh tế thị trường tác động đến tâm lý, tình cảm của học sinh, các em rất dễ bị cuốn theo lối sống thực dụng, đua đòi, thiếu lành mạnh, hành vi bạo lực từ mạng internet, phim ảnh, game online. Ở một số địa phương, chưa có sự phối hợp, chỉ đạo quyết liệt, huy động sức mạnh của toàn bộ hệ thống chính trị vào cuộc trong việc làm trong sạch môi trường xã hội, tấn công tội phạm, ngăn chặn hành vi bạo lực và phối hợp chặt chẽ với nhà trường trong việc quản lý, giáo dục học sinh... Theo bà nguyên nhân nào là quan trọng nhất? Thứ trưởng Nguyễn Thị Nghĩa: Một trong những nguyên nhân quan trọng là từ giáo dục trong nhà trường: Nội dung chương trình giáo dục đạo đức - công dân có phần còn nặng về lý thuyết, ít liên hệ với thực tiễn và việc ứng xử với những tình huống cụ thể, phương pháp giảng dạy còn chậm được đổi mới, chưa cuốn hút học sinh.
Phương thức tổ chức hoạt động ngoài giờ lên lớp, hoạt động ngoại khóa chưa phù hợp, chưa có nhiều hoạt động trải nghiệm để giúp học sinh nhận thức được các bài học về giá trị của lòng nhân ái, bao dung, giá trị của sự tôn trọng và trách nhiệm của bản thân, nhận diện và lên án các hành vi bạo lực... Vai trò của các tổ chức Đoàn, Hội, Đội trong một số nhà trường chưa được phát huy, giáo viên chủ nhiệm chưa thực sự sâu sát với học trò, chưa thường xuyên liên hệ với gia đình để quản lý, giáo dục học sinh; một số thầy cô giáo cũng chưa thực sự là tấm gương sáng cho học sinh noi theo. Bạo lực học đường do nhiều nguyên nhân, diễn ra ở nhiều địa bàn, vì vậy rất cần có sự quan tâm vào cuộc quyết liệt của nhà trường, gia đình và xã hội. Trong đó, chính quyền địa phương đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc chỉ đạo các lực lượng trên địa bàn chung tay làm trong sạch môi trường xã hội, môi trường giáo dục xung quanh nhà trường; phối hợp quản lý - giáo dục học sinh. Đặc biệt là chỉ đạo các ban ngành, tổ chức, đoàn thể trên địa bàn phối hợp với nhà trường, gia đình trong quản lý và giáo dục học sinh cá biệt, học sinh có hoàn cảnh đặc biệt. Có như vậy thì việc ngăn chặn, đẩy lùi vấn nạn bạo lực học đường mới có hiệu quả. Giải pháp nào có thể khắc phục, đi đến chấm dứt được bạo lực học đường vẫn xảy ra hiện nay? Bộ GD&ĐT sẽ có những giải pháp riêng nào? Thứ trưởng Nguyễn Thị Nghĩa: Để ngăn chặn, đẩy lùi và từng bước chấm dứt tình trạng bạo lực học đường rất cần sự chung tay của toàn xã hội, đặc biệt là sự phối hợp chặt chẽ giữa nhà trường, gia đình và các cấp các ngành, các tổ chức đoàn thể xã hội để xây dựng môi trường giáo dục nhà trường, môi trường giáo dục gia đình, môi trường xã hội lành mạnh, không bạo lực, tạo điều kiện cho học sinh được phát triển hài hòa thể chất, trí tuệ và tâm hồn đạo đức trong sáng và lành mạnh. Bộ Giáo dục và Đào tạo tiếp tục chỉ đạo các sở giáo dục và đào tạo, cơ sở giáo dục thực hiện đồng bộ các giải pháp về giáo dục, tuyên truyền, quản lý và tăng cường phối hợp với các ngành chức năng để phòng ngừa, ngăn chặn tình trạng học sinh đánh nhau. Bộ Giáo dục và Đào tạo tiếp tục chỉ đạo triển khai thực hiện hiệu quả Đề án “Tăng cường giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống cho thanh niên, thiếu niên và nhi đồng giai đoạn 2015-2020” theo Quyết định số 1501/2015/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Chỉ đạo triển khai đổi mới nội dung, chương trình và phương pháp giảng dạy môn học Giáo dục công dân, môn học đạo đức theo Đề án đổi mới chương trình giáo dục phổ thông đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; đưa môn Giáo dục công dân thành môn thi tốt nghiệp THPT trong năm 2017. Tăng cường công tác giáo dục đạo đức, lối sống, kỹ năng sống, giáo dục giá trị sống thông qua giảng dạy tích hợp vào các môn học, thông qua việc tổ chức các hoạt động trải nghiệm, đẩy mạnh triển khai công tác tham vấn, tư vấn tâm lý học đường; Xây dựng và thực hiện bộ quy tắc về văn hóa ứng xử trong trường học. Bộ Giáo dục và Đào tạo xây dựng và trình Chính phủ ban hành Nghị định Quy định môi trường giáo dục an toàn, lành mạnh, thân thiện, phòng chống bạo lực học đường. Cùng với đó, Bộ Giáo dục và Đào tạo phối hợp với các bộ, ban, ngành Trung ương tăng cường chỉ đạo, hướng dẫn về phổ biến giáo dục pháp luật, phòng chống tác hại của trò chơi trực tuyến có nội dung bạo lực và không lành mạnh; đảm bảo an ninh, trật tự, phòng chống tội phạm và vi phạm pháp luật khác trong ngành Giáo dục. Tiếp tục đổi mới công tác thi đua, khen thưởng các nhà trường; Quan tâm việc bồi dưỡng và tôn vinh, khen thưởng các tấm gương học sinh, sinh viên tiêu biểu; các giáo viên chủ nhiệm, giáo viên Đoàn, Đội, các tổ chức, cá nhân làm tốt công tác giáo dục học sinh và bảo đảm an ninh, trật tự trường học. Với những giải pháp quyết liệt, đồng bộ của ngành Giáo dục và sự nỗ lực vào cuộc, chung tay của các cấp, các ngành, địa phương, tôi tin tưởng trong thời gian tới tình trạng bạo lực học đường sẽ được ngăn chặn, đẩy lùi. Xin trân trọng cám ơn Thứ trưởng! Have a nice day!
0 Comments
Theo thông tin từ ông Trần Đình Hùng - Trưởng phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Hương Khê (Hà Tĩnh), sáng ngày 01/11/2016, lũ chia cắt hầu hết các xã trên địa bàn nên 59 trường (mầm non, tiểu học, THCS) với 21.000 học sinh phải nghỉ học.
“Lũ đợt này to hơn đợt trước. Phòng Giáo dục và Đào tạo, trường THCS Chu Văn An nằm tại thị trấn, vị trí cao, nhưng nước lũ cũng đang dâng lên đường vào cổng”, thầy Hùng cho biết.
Hương Khê là huyện miền núi vừa trải qua trận "đại hồng thủy". “Các trường vừa mới chìm ngập trong lũ, giáo viên, học sinh, phụ huynh được sự giúp đỡ của bộ đội và các lực lượng tình nguyện vệ sinh ổn định tình hình, những mất mát mới được cộng đồng người Việt trong và ngoài nước chia sẻ, bây giờ lại “lũ chồng lên lũ”, trường lại ngập, thầy và trò gặp rất nhiều khó khăn”, thầy Hồ Cường chia sẻ. Have a nice day!Ngày 30/10/2016, thay mặt Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XII, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành Nghị quyết số 04-NQ/TW về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ. Dưới đây là toàn văn Nghị quyết: I- TÌNH HÌNH VÀ NGUYÊN NHÂN 1- Tình hình Nhìn một cách tổng thể, trong suốt quá trình xây dựng, chiến đấu, trưởng thành và lãnh đạo cách mạng, hơn 86 năm qua Đảng ta luôn giữ vững bản lĩnh chính trị, bản chất cách mạng và khoa học; kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn và ngày càng lớn mạnh. Dưới sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng, nhân dân ta đã giành được hết thắng lợi này đến thắng lợi khác, lập nên những kỳ tích trong thế kỷ XX. Trong thời kỳ đổi mới, Đảng đã lãnh đạo đất nước vượt qua khó khăn, thách thức và đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử , thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; giữ vững ổn định chính trị; phát triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; tăng cường quốc phòng - an ninh; mở rộng quan hệ đối ngoại, nâng cao vị thế của nước ta trên trường quốc tế; củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng. Đảng ta xứng đáng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ và vị thế như ngày nay. Đó là kết quả sự nỗ lực phấn đấu không ngừng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, trong đó có sự hy sinh quên mình và đóng góp quan trọng của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Chúng ta có quyền tự hào về bản chất tốt đẹp, truyền thống anh hùng và lịch sử vẻ vang của Đảng ta - Đảng của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, đại biểu của dân tộc Việt Nam anh hùng. Việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI về xây dựng Đảng đã tạo được những chuyển biến tích cực trong hệ thống chính trị. Quá trình tự phê bình và phê bình đã góp phần đấu tranh với những suy nghĩ và hành vi sai trái nhằm cảnh tỉnh, cảnh báo, răn đe, từng bước ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, tiêu cực. Nhiều vụ án tham nhũng nghiêm trọng, phức tạp đã được phát hiện và tập trung chỉ đạo điều tra, truy tố, xét xử nghiêm minh, được nhân dân đồng tình, ủng hộ. Công tác đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" đạt được một số kết quả; tích cực đấu tranh phòng, chống "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch. Những kết quả đó đã góp phần quan trọng vào t hành công của đại hội đảng bộ các cấp, Đại hội XII của Đảng và bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2016 - 2021.
Tuy nhiên, công tác xây dựng Đảng còn không ít hạn chế, khuyết điểm. Công tác giáo dục chính trị tư tưởng, nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, giảng dạy và học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh chưa đáp ứng yêu cầu. Nội dung sinh hoạt đảng ở nhiều nơi còn đơn điệu, hình thức, hiệu quả chưa cao. Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của không ít tổ chức đảng còn thấp, thậm chí có nơi mất sức chiến đấu. Công tác tổ chức, cán bộ và quản lý cán bộ, đảng viên còn yếu kém. Nhiều cán bộ, đảng viên, trong đó có người đứng đầu chưa thể hiện tính tiên phong, gương mẫu; còn biểu hiện quan liêu, cửa quyền, chưa thực sự sâu sát thực tế, cơ sở. Công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật đảng chưa đủ sức răn đe, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái. Thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, một số việc chưa đạt mục tiêu, yêu cầu đề ra. Tự phê bình và phê bình nhiều nơi mang tính hình thức; vẫn còn tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm; một số cán bộ, đảng viên thiếu tự giác nhận khuyết điểm và trách nhiệm của mình trong công việc được giao. Việc phân định thẩm quyền, trách nhiệm, mối quan hệ công tác của người đứng đầu với tập thể cấp ủy, lãnh đạo cơ quan, đơn vị chưa rõ ràng. Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi, có mặt, có bộ phận còn diễn biến tinh vi, phức tạp hơn; tham nhũng, lãng phí, tiêu cực vẫn còn nghiêm trọng, tập trung vào số đảng viên có chức vụ trong bộ máy nhà nước. Tình hình mâu thuẫn, mất đoàn kết nội bộ không chỉ ở cấp cơ sở mà ở cả một số cơ quan Trung ương, tập đoàn kinh tế, tổng công ty. Nhiều tổ chức đảng, đảng viên còn hạn chế trong nhận thức, lơ là, mất cảnh giác, lúng túng trong nhận diện và đấu tranh, ngăn chặn "tự diễn biến", "tự chuyển hóa"; việc đấu tranh, phản bác những luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch, tổ chức phản động, phần tử cơ hội, bất mãn chính trị còn bị động, thiếu sắc bén và hiệu quả chưa cao. Trong khi đó, sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống dẫn tới "tự diễn biến", "tự chuyển hóa " chỉ là một bước ngắn, thậm chí rất ngắn, nguy hiểm khôn lường, có thể dẫn tới tiếp tay hoặc cấu kết với các thế lực xấu, thù địch, phản bội lại lý tưởng và sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc. Những hạn chế, khuyết điểm nêu trên làm giảm sút vai trò lãnh đạo của Đảng; làm tổn thương tình cảm và suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng, là một nguy cơ trực tiếp đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ. 2- Nguyên nhân Tình hình trên có cả nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong đó, nguyên nhân chủ quan là chủ yếu. 1) Nguyên nhân khách quan: Tác động từ khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội trên thế giới sau sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu; từ mặt trái của kinh tế thị trường, những hoạt động lợi dụng sự phát triển của khoa học công nghệ thông tin, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Những khó khăn, thách thức của các nước đi theo con đường xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh quốc tế hiện nay; nhiều vấn đề mới, phức tạp phát sinh từ thực tiễn nhưng chưa được lý giải và xử lý kịp thời, hiệu quả. Các thế lực thù địch, phản động đẩy mạnh thực hiện chiến lược "diễn biến hoà bình", lợi dụng các vấn đề "dân chủ", "nhân quyền", dân tộc, tôn giáo và những yếu kém, sơ hở, mất cảnh giác của ta để xuyên tạc, bóp méo tình hình; cổ súy cho lối sống hưởng thụ, thực dụng, ích kỷ, cá nhân chủ nghĩa; đồng thời, cấu kết với các phần tử cơ hội và bất mãn chính trị hoạt động ráo riết, chống phá cách mạng ngày càng tinh vi, nguy hiểm hơn. 2) Nguyên nhân chủ quan: Nguyên nhân sâu xa, chủ yếu của tình trạng suy thoái ở một bộ phận cán bộ, đảng viên trước hết là do bản thân những cán bộ, đảng viên đó thiếu tu dưỡng, rèn luyện; lập trường tư tưởng không vững vàng, hoang mang, dao động trước những tác động từ bên ngoài; sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, hẹp hòi, bị cám dỗ bởi các lợi ích vật chất, không làm tròn trách nhiệm, bổn phận của mình trước Đảng, trước dân. Công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ, đảng viên về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, giảng dạy và học tập nghị quyết của Đảng chưa được coi trọng đúng mức, kém hiệu quả, nội dung và phương pháp giáo dục, truyền đạt chậm đổi mới; chưa tạo được sự thống nhất cao trong nhận thức về tình trạng suy thoái , những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" và những hậu quả gây ra. Sinh hoạt đảng, nhất là sinh hoạt chi bộ ở nhiều nơi còn hình thức, đơn điệu. Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận chưa có chiều sâu, không theo kịp tình hình thực tế. C hưa chú trọng xây dựng, tuyên truyền, nhân rộng những mô hình mới, điển hình tiên tiến, lấy tích cực đẩy lùi tiêu cực. Một số nghị quyết về xây dựng, chỉnh đốn Đảng có nội dung chưa sát thực tiễn, thiếu tính khả thi và thiếu chế tài xử lý. Nhiều cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu các cấp chưa có quyết tâm chính trị cao; việc cụ thể hóa các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư thành chương trình, kế hoạch tổ chức thực hiện ở một số địa phương, đơn vị còn chung chung, chỉ đạo thiếu quyết liệt, còn trông chờ, ỷ lại cấp trên; một số cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, trong đó có cả cán bộ cấp cao thiếu tiên phong, gương mẫu. Việc xử lý cán bộ, đảng viên vi phạm còn nương nhẹ, nể nang, thiếu cương quyết. Chưa có cơ chế khen thưởng những tập thể, cá nhân tổ chức thực hiện nghị quyết sáng tạo, có hiệu quả và xử lý nghiêm những tập thể, cá nhân không thực hiện hoặc thực hiện không nghiêm túc. Việc nghiên cứu, sửa đổi, ban hành cơ chế, chính sách, luật pháp thích ứng với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chưa kịp thời . Tổ chức bộ máy còn cồng kềnh, chồng chéo, hoạt động kém hiệu lực, hiệu quả. Cơ chế kiểm soát quyền lực chậm được hoàn thiện, còn nhiều sơ hở. Thiếu cơ chế để xử lý, thay thế kịp thời những cán bộ lãnh đạo, quản lý yếu về năng lực, giảm sút uy tín, trì trệ trong công tác, kém hiệu quả trong phòng ngừa, đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực. Chậm ban hành quy định xử lý tổ chức, cá nhân có biểu hiện suy thoái, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa". Đánh giá, bố trí, sử dụng cán bộ còn nể nang, cục bộ. Một số c ơ chế, chính sách trong đề bạt, bổ nhiệm cán bộ chưa công bằng ; chính sách tiền lương, nhà ở chưa tạo được động lực cống hiến cho cán bộ , công chức. Việc thực hiện kỷ cương, kỷ luật của Đảng chưa nghiêm, còn có biểu hiện "nhẹ trên, nặng dưới". Công tác quản lý cán bộ, đảng viên còn thiếu chặt chẽ. Nguyên tắc tập trung dân chủ ở nhiều nơi bị buông lỏng; nguyên tắc tự phê bình và phê bình thực hiện không nghiêm, chưa có cơ chế để bảo vệ người đấu tranh phê bình. Sự phối hợp giữa công tác kiểm tra, giám sát của Đảng với công tác thanh tra, kiểm toán , điều tra, truy tố, xét xử chưa chặt chẽ, xử lý chưa đủ nghiêm minh. Công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí chưa đạt yêu cầu; việc kê khai tài sản, thu nhập còn hình thức. Chưa chủ động và thiếu giải pháp phù hợp để định hướng thông tin trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng và công nghệ thông tin, mạng xã hội phát triển mạnh mẽ. Việc quản lý thông tin còn lỏng lẻo, thiếu giải pháp đủ mạnh để đấu tranh có hiệu quả với các thông tin sai lệch, phản bác lại những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch , phản động, phần tử cơ hội và bất mãn chính trị . Việc phát huy vai trò, trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội, các cơ quan truyền thông và nhân dân trong đấu tranh, ngăn chặn suy thoái, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong cán bộ, đảng viên còn hạn chế, hiệu quả chưa cao. II- NHẬN DIỆN NHỮNG BIỂU HIỆN SUY THOÁI VỀ TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ, ĐẠO ĐỨC, LỐI SỐNG, "TỰ DIỄN BIẾN", "TỰ CHUYỂN HÓA" 1- Biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị 1) Phai nhạt lý tưởng cách mạng; dao động, giảm sút niềm tin vào mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hoài nghi, thiếu tin tưởng vào chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. 2) Xa rời tôn chỉ, mục đích của Đảng; không kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; phụ họa theo những nhận thức lệch lạc, quan điểm sai trái. 3) Nhận thức sai lệch về ý nghĩa, tầm quan trọng của lý luận và học tập lý luận chính trị; lười học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. 4) Không chấp hành nghiêm các nguyên tắc tổ chức của Đảng; sa sút ý chí phấn đấu, không gương mẫu trong công tác; né tránh trách nhiệm, thiếu trách nhiệm, trung bình chủ nghĩa, làm việc qua loa, đại khái, kém hiệu quả; không còn ý thức hết lòng vì nước, vì dân, không làm tròn chức trách, nhiệm vụ được giao. 5) Trong tự phê bình còn giấu giếm, không dám nhận khuyết điểm; khi có khuyết điểm thì thiếu thành khẩn, không tự giác nhận kỷ luật. Trong phê bình thì nể nang, né tránh, ngại va chạm, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh; lợi dụng phê bình để nịnh bợ, lấy lòng nhau hoặc vu khống, bôi nhọ, chỉ trích, phê phán người khác với động cơ cá nhân không trong sáng. 6) Nói và viết không đúng với quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Nói không đi đôi với làm; hứa nhiều làm ít; nói một đằng, làm một nẻo; nói trong hội nghị khác, nói ngoài hội nghị khác; nói và làm không nhất quán giữa khi đương chức với lúc về nghỉ hưu. 7) Duy ý chí, áp đặt, bảo thủ, chỉ làm theo ý mình; không chịu học tập, lắng nghe, tiếp thu ý kiến hợp lý của người khác. 8) Tham vọng chức quyền, không chấp hành sự phân công của tổ chức; kén chọn chức danh, vị trí công tác; chọn nơi có nhiều lợi ích, chọn việc dễ, bỏ việc khó; không sẵn sàng nhận nhiệm vụ ở nơi xa, nơi có khó khăn. Thậm chí còn tìm mọi cách để vận động, tác động, tranh thủ phiếu bầu, phiếu tín nhiệm cho cá nhân một cách không lành mạnh. 9) Vướng vào "tư duy nhiệm kỳ", chỉ tập trung giải quyết những vấn đề ngắn hạn trước mắt, có lợi cho mình; tranh thủ bổ nhiệm người thân, người quen, người nhà dù không đủ tiêu chuẩn, điều kiện giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý hoặc bố trí, sắp xếp vào vị trí có nhiều lợi ích. 2- Biểu hiện về suy thoái đạo đức, lối sống 1) Cá nhân chủ nghĩa, sống ích kỷ, thực dụng, cơ hội, vụ lợi; chỉ lo thu vén cá nhân, không quan tâm đến lợi ích tập thể; ganh ghét, đố kỵ, so bì, tị nạnh, không muốn người khác hơn mình. 2) Vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, gây mất đoàn kết nội bộ; đoàn kết xuôi chiều, dân chủ hình thức; cục bộ, bè phái, kèn cựa địa vị, tranh chức, tranh quyền; độc đoán, gia trưởng, thiếu dân chủ trong chỉ đạo, điều hành. 4) Mắc bệnh "thành tích", háo danh, phô trương, che dấu khuyết điểm, thổi phồng thành tích, "đánh bóng" tên tuổi; thích được đề cao, ca ngợi; "chạy thành tích", "chạy khen thưởng", "chạy danh hiệu". 5) Quan liêu, xa rời quần chúng, không sâu sát cơ sở, thiếu kiểm tra, đôn đốc, không nắm chắc tình hình địa phương, cơ quan, đơn vị mình; thờ ơ, vô cảm, thiếu trách nhiệm trước những khó khăn, bức xúc và đòi hỏi chính đáng của nhân dân. 6) Quyết định hoặc tổ chức thực hiện gây lãng phí, thất thoát tài chính, tài sản, ngân sách nhà nước, đất đai, tài nguyên...; đầu tư công tràn lan, hiệu quả thấp hoặc không hiệu quả; mua sắm, sử dụng tài sản công vượt quy định; chi tiêu công quỹ tùy tiện, vô nguyên tắc. Sử dụng lãng phí nguồn nhân lực, phí phạm thời gian lao động. 7) Tham ô, tham nhũng, lợi dụng chức vụ, quyền hạn cấu kết với doanh nghiệp, với đối tượng khác để trục lợi. Lợi dụng, lạm dụng chức vụ, quyền hạn được giao để dung túng, bao che, tiếp tay cho tham nhũng, tiêu cực. 8) Thao túng trong công tác cán bộ; chạy chức, chạy quyền, chạy chỗ, chạy luân chuyển, chạy bằng cấp, chạy tội... Sử dụng quyền lực được giao để phục vụ lợi ích cá nhân hoặc để người thân, người quen lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để trục lợi. 9) Đánh bạc, rượu chè bê tha, mê tín dị đoan, ủng hộ hoặc tham gia các tổ chức tôn giáo bất hợp pháp. Sa vào các tệ nạn xã hội, vi phạm thuần phong, mỹ tục, truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc, chuẩn mực đạo đức gia đình và xã hội. 3- Biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ 1) Phản bác, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các nguyên tắc tổ chức của Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ; đòi thực hiện "đa nguyên, đa đảng". 2) Phản bác, phủ nhận nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; đòi thực hiện thể chế "tam quyền phân lập", phát triển "xã hội dân sự" . Phủ nhận nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chế độ sở hữu toàn dân về đất đai. 3) Nói, viết, làm trái quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Hạ thấp, phủ nhận những thành quả cách mạng; thổi phồng khuyết điểm của Đảng, Nhà nước. Xuyên tạc lịch sử, bịa đặt, vu cáo các lãnh tụ tiền bối và lãnh đạo Đảng, Nhà nước. 4) Kích động tư tưởng bất mãn, bất đồng chính kiến, chống đối trong nội bộ. Lợi dụng và sử dụng các phương tiện thông tin, truyền thông, mạng xã hội để nói xấu, bôi nhọ, hạ thấp uy tín, vai trò lãnh đạo của Đảng, gây chia rẽ nội bộ, nghi ngờ trong cán bộ, đảng viên và nhân dân. 5) Phủ nhận vai trò lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với lực lượng vũ trang; đòi "phi chính trị hoá" quân đội và công an; xuyên tạc đường lối quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân; chia rẽ quân đội với công an; chia rẽ nhân dân với quân đội và công an. 6) Móc nối, cấu kết với các thế lực thù địch, phản động và các phần tử cơ hội, bất mãn chính trị để truyền bá tư tưởng, quan điểm đối lập; vận động, tổ chức, tập hợp lực lượng để chống phá Đảng và Nhà nước. 7) Đưa thông tin sai lệch, xuyên tạc đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước; thông tin phiến diện, một chiều về tình hình quốc tế, gây bất lợi trong quan hệ giữa Việt Nam với các nước. 8) Phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với báo chí, văn học - nghệ thuật. Tác động, lôi kéo, lái dư luận xã hội không theo đường lối của Đảng; cổ súy cho quan điểm, tư tưởng dân chủ cực đoan; thổi phồng mặt trái của xã hội. Sáng tác, quảng bá những tác phẩm văn hóa, nghệ thuật lệch lạc, bóp méo lịch sử, hạ thấp uy tín của Đảng. 9) Có tư tưởng dân tộc hẹp hòi, tôn giáo cực đoan. Lợi dụng vấn đề "dân chủ", "nhân quyền", dân tộc, tôn giáo để gây chia rẽ nội bộ, gây chia rẽ giữa các dân tộc, giữa các tôn giáo, giữa dân tộc và tôn giáo, giữa các dân tộc, tôn giáo với Đảng và Nhà nước. III- MỤC TIÊU, QUAN ĐIỂM 1 - Mục tiêu Nhận thức sâu sắc về nguy cơ, nhận diện đúng những biểu hiện và đề ra các giải pháp phù hợp để đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi có hiệu quả tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ. Kiên quyết khắc phục những yếu kém trong công tác cán bộ và quản lý cán bộ; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức, trách nhiệm, năng lực và động cơ đúng đắn, thực sự tiên phong, gương mẫu, luôn đặt lợi ích của tập thể, quốc gia, dân tộc lên trên lợi ích cá nhân, thực sự là cán bộ của dân, phục vụ nhân dân. Củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng. 2 - Quan điểm Nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, đánh giá đúng sự thật. Kết hợp giữa "xây" và "chống"; "xây" là nhiệm vụ cơ bản, chiến lược, lâu dài; "chống" là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách. Kiên quyết, kiên trì thực hiện với quyết tâm chính trị cao, nỗ lực lớn; phát huy sự chủ động, sáng tạo và sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, của nhân dân, trong đó cán bộ lãnh đạo, quản lý, trước hết là cán bộ cấp cao, cán bộ chủ chốt, người đứng đầu các cấp là nòng cốt; thực hiện quyết liệt, đồng bộ các giải pháp để đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" có hiệu quả, nhất là những vụ việc gây bức xúc trong dư luận để củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng. Tăng cường sự lãnh đạo và đoàn kết, thống nhất trong Đảng, trước hết là Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, cấp ủy và ban thường vụ cấp ủy các cấp . Giữ vững nguyên tắc, kỷ luật, kỷ cương của Đảng; đề cao pháp luật của Nhà nước. Chủ động phòng ngừa, tích cực đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, phản động và các phần tử cơ hội, bất mãn chính trị. IV- CÁC NHÓM NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP Đại hội XII đã đề ra yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng với 10 giải pháp cơ bản, trong đó nhấn mạnh phải kiên quyết, kiên trì tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, với trọng tâm là đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến" , "tự chuyển hóa " trong nội bộ. Vì vậy, các cấp ủy, tổ chức đảng cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện đồng bộ, toàn diện, có hiệu quả các nhóm nhiệm vụ, giải pháp sau: 1- Về công tác chính trị tư tưởng, tự phê bình và phê bình 1) Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo nâng cao nhận thức trong toàn Đảng về ý nghĩa, vai trò, tầm quan trọng và sự cần thiết của việc học tập, nghiên cứu, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Có kế hoạch học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận bắt buộc hằng năm đối với cán bộ, đảng viên gắn với việc cung cấp thông tin, cập nhật kiến thức mới phù hợp từng đối tượng, từng cấp, từng ngành, từng địa phương. Thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh theo Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15-5-2016 của Bộ Chính trị. 2) Tích cực đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng; đẩy mạnh công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, nhất là những mô hình mới, kinh nghiệm hay; khuyến khích phát triển tư duy lý luận phù hợp với đường lối đổi mới của Đảng. Đổi mới nội dung, phương pháp, hình thức dạy và học lý luận chính trị gắn với ứng dụng thực tế, tăng cường kiểm tra và quản lý chặt chẽ chất lượng dạy và học. Chủ động nắm bắt diễn biến tư tưởng của cán bộ, đảng viên để có chủ trương, giải pháp xử lý kịp thời, hiệu quả. 3) Xây dựng và thực hiện có hiệu quả nội dung xây dựng Đảng về đạo đức, trong đó chú trọng xây dựng hệ thống chuẩn mực các mối quan hệ của cán bộ, đảng viên với tổ chức đảng và với nhân dân . Hằng năm, người đứng đầu và từng cán bộ, đảng viên có cam kết rèn luyện, giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống, không suy thoái, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa"; các cấp ủy, tổ chức đảng kiểm tra, giám sát việc thực hiện cam kết của cán bộ, đảng viên ở địa phương, cơ quan, đơn vị mình. 4) Hoàn thiện và thực hiện nghiêm túc quy định về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương và bí thư cấp ủy các cấp. 5) Tiếp tục đổi mới nội dung, hình thức để nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ. Xây dựng quy định tự phê bình và phê bình, khắc phục tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm và bảo vệ người thẳng thắn, dám đấu tranh; cấp trên gợi ý kiểm điểm và trực tiếp dự, chỉ đạo ở những nơi có vấn đề phức tạp, nơi có biểu hiện suy thoái, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa". Hoàn thiện quy chế đánh giá cán bộ một cách khoa học, phù hợp; quy định lấy phiếu tín nhiệm ở các cấp, các ngành định kỳ hoặc đột xuất . 6) Tăng cường quản lý, chấn chỉnh hoạt động báo chí, xuất bản, Internet, mạng xã hội. Phát huy vai trò, nêu cao trách nhiệm của các cơ quan báo chí, cơ quan chủ quản báo chí trong công tác đấu tranh phòng, chống suy thoái, quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa". Chủ động định hướng, cung cấp thông tin thường xuyên hoặc đột xuất; chú trọng tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, những thành quả trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, những nhân tố tích cực, điển hình tiên tiến, gương người tốt, việc tốt. Khen thưởng kịp thời những tập thể, cá nhân có thành tích; xử lý nghiêm những tập thể, cá nhân vi phạm quy định về thông tin, báo chí, tuyên truyền. 7) Chủ động chuẩn bị các phương án, biện pháp cụ thể, sát với tình hình; xây dựng lý luận sắc bén để đấu tranh, phản bác có hiệu quả đối với các quan điểm sai trái, luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội và bất mãn chính trị chống phá Đảng, Nhà nước và khối đại đoàn kết toàn dân tộc. 8) Hoàn thiện Quy chế về kỷ luật phát ngôn đối với cán bộ, đảng viên; xử lý nghiêm những cá nhân, nhóm người cấu kết với nhau, lợi dụng vấn đề "dân chủ", "nhân quyền", tôn giáo, dân tộc để tuyên truyền, xuyên tạc và có hành vi nói, viết, lưu trữ, phát tán tài liệu sai trái. Tổ chức diễn đàn trao đổi, đối thoại những vấn đề còn có nhận thức, quan điểm khác nhau liên quan đến đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. 9) Cấp ủy, chính quyền và người đứng đầu các cấp phải xây dựng kế hoạch, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo và kiểm tra, giám sát, khắc phục tình trạng quan liêu, xa dân. Chú trọng công tác tuyên truyền, giáo dục, rèn luyện phong cách làm việc khoa học, cụ thể, sâu sát cơ sở cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp. 10) Hằng năm hoặc khi chuẩn bị đề bạt, luân chuyển, điều động công tác đối với cán bộ, tiêu chí quan trọng để đánh giá, xếp loại tổ chức và cán bộ, đảng viên là: chương trình hành động của tập thể và cá nhân; kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao; kết quả thực hiện cam kết rèn luyện, giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống; tự phê bình và phê bình; sự nêu gương của cán bộ lãnh đạo, quản lý; hiệu quả đấu tranh, khắc phục suy thoái, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa". 2- Về cơ chế, chính sách 1) Các cấp ủy, tổ chức đảng chỉ đạo rà soát, hoàn thiện và thực hiện nghiêm cơ chế kiểm tra, giám sát, kiểm soát việc thực thi quyền lực của người có chức, có quyền, theo hướng quyền hạn đến đâu trách nhiệm đến đó; phân định rõ thẩm quyền và trách nhiệm tập thể, cá nhân trong từng công đoạn giải quyết công việc và có chế tài xử lý nghiêm những hành vi vi phạm. Kiên quyết sàng lọc, miễn nhiệm, thay thế, cho từ chức đối với cán bộ làm việc kém hiệu quả, không hoàn thành nhiệm vụ, yếu về năng lực, kém về phẩm chất đạo đức, tín nhiệm thấp mà không chờ hết nhiệm kỳ, hết tuổi công tác, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý và người đứng đầu. Trước mắt, rà soát, kiểm tra, xử lý dứt điểm các vụ việc vi phạm trong thực thi quyền lực gây bức xúc trong cán bộ, đảng viên và nhân dân. 2) Các cấp ủy, tổ chức đảng chỉ đạo rà soát, hoàn thiện các quy định, văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, điều hành bảo đảm công khai, minh bạch, góp phần xóa bỏ cơ chế "xin - cho", "duyệt - cấp"; ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, tiêu cực, "lợi ích nhóm", "sân sau", trục lợi trong quản lý, sử dụng ngân sách, tài sản công, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, vốn đầu tư, đất đai, tài nguyên, khoáng sản, tài chính, ngân hàng, thuế, hải quan, phân bổ, quản lý và sử dụng biên chế... Tăng cường hiệu quả công tác phòng, chống rửa tiền , chuyển mạnh từ thanh toán tiền mặt sang thanh toán không dùng tiền mặt . 3) Kiên quyết thực hiện đúng mục tiêu, có hiệu quả việc sắp xếp lại bộ máy, tinh giản biên chế gắn với cải cách chế độ công vụ, cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và đổi mới chính sách tiền lương. Thực hiện chế độ hợp đồng có thời hạn đối với viên chức nhà nước. Xây dựng và thực hiện chính sách nhà ở nhằm tạo động lực cho cán bộ, công chức theo hướng nhiều chủ thể tham gia, hạn chế tối đa việc sử dụng ngân sách nhà nước. 4) Đẩy mạnh xã hội hóa , tách cung ứng dịch vụ công và quản lý sản xuất kinh doanh ra khỏi chức năng quản lý nhà nước nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước; khắc phục tình trạng quan liêu, cửa quyền, sách nhiễu, tiêu cực của cán bộ, công chức. Rà soát, thoái vốn, cổ phần hóa, chấn chỉnh hoạt động của các doanh nghiệp quân đội và công an sản xuất kinh doanh thua lỗ, không phục vụ nhiệm vụ quốc phòng, an ninh. 5) Đẩy mạnh cải cách hành chính trong Đảng; rà soát, sửa đổi, hoàn thiện các quy định nhằm tăng cường quản lý chặt chẽ cán bộ, đảng viên; khắc phục ngay tình trạng ăn uống, chè chén, "liên hoan", "gặp mặt" không lành mạnh, với động cơ không trong sáng; khắc phục những bất hợp lý trong công tác cán bộ, như: phân công, phân cấp, thẩm quyền quản lý, quy trình bổ nhiệm... nhằm bảo đảm nguyên tắc bình đẳng, tổng thể, liên thông giữa các cơ quan trong hệ thống chính trị và chấn chỉnh, khắc phục tình trạng kén chọn vị trí, chức danh trong đội ngũ cán bộ, đảng viên. 6) Hoàn thiện quy định về tổ chức, bộ máy và công tác bảo vệ chính trị nội bộ; bảo đảm sự trong sạch về chính trị trong nội bộ, trước hết là cán bộ lãnh đạo cấp chiến lược. Chú trọng nắm tình hình và giải quyết tốt vấn đề chính trị hiện nay; chủ động phát hiện, ngăn chặn kịp thời và xử lý nghiêm các đối tượng chống đối, phần tử cơ hội, bất mãn chính trị. Rà soát, hoàn thiện quy định về quản lý cán bộ, đảng viên nghiên cứu, học tập, lao động và công tác ở nước ngoài. Phát huy vai trò, trách nhiệm của Quân ủy Trung ương, Đảng ủy Công an Trung ương trong đấu tranh phòng, chống "tự diễn biến", "tự chuyển hóa". 3- Về kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng 1) Đẩy mạnh công tác kiểm tra, giám sát định kỳ hoặc đột xuất việc tổ chức thực hiện các nghị quyết, kết luận của Đảng. Xử lý nghiêm tập thể, cá nhân ban hành văn bản không đúng, không phù hợp hoặc thực hiện không nghiêm túc các nội dung nghị quyết, kết luận của Đảng; khen thưởng kịp thời tập thể, cá nhân thực hiện có hiệu quả. 2) Các cấp ủy, tổ chức đảng tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và công khai kết quả để góp phần đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa". Bộ Chính trị, Ban Bí thư và ban thường vụ cấp ủy các cấp chỉ đạo rà soát ngay đội ngũ cán bộ lãnh đạo , quản lý thuộc quyền và xử lý nghiêm những trường hợp suy thoái, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa", không bảo đảm về tiêu chuẩn, điều kiện, quy trình bổ nhiệm, năng lực và hiệu quả công tác thấp, nhất là những trường hợp người nhà, người thân của cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp có nhiều dư luận. 3) Nâng cao hiệu quả hoạt động của Ban Chỉ đạo Trung ương và cơ quan thường trực về phòng, chống tham nhũng. Nghiên cứu việc tăng thẩm quyền và chế tài xử lý trách nhiệm của ủy ban kiểm tra các cấp trong việc kiểm tra, giám sát, kỷ luật đối với tổ chức đảng, đảng viên. Rà soát, hoàn thiện các quy định của Đảng và Nhà nước về xử lý kỷ luật, bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ giữa kỷ luật của Đảng với kỷ luật hành chính của Nhà nước. 4) Tăng thẩm quyền và đề cao trách nhiệm người đứng đầu trong việc tạm đình chỉ công tác cán bộ dưới quyền để kiểm điểm khi có dấu hiệu vi phạm hoặc chậm trễ, trì trệ, kém hiệu quả trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao; đồng thời, xem xét tư cách đảng viên và phối hợp với các cơ quan chức năng có biện pháp ngăn chặn hành vi bao che, cản trở, gây khó khăn trong xử lý hoặc có dấu hiệu bỏ trốn. 5) Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát; phát huy vai trò của các cơ quan thanh tra, kiểm tra, điều tra và các cơ quan tư pháp để nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí, xử lý nghiêm minh đối với những cán bộ sai phạm theo quy định của pháp luật; trước mắt tập trung xử lý dứt điểm các vụ tham nhũng nghiêm trọng, phức tạp được dư luận xã hội và nhân dân quan tâm và công khai kết quả xử lý. 6) Siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong Đảng, thực hiện nghiêm các nguyên tắc tổ chức của Đảng; cán bộ, đảng viên vi phạm phải có hình thức xử lý kịp thời, chính xác, bảo đảm công khai, minh bạch, công bằng. Cấp ủy các cấp chỉ đạo nâng cao chất lượng kết nạp đảng viên; đồng thời, tiến hành rà soát, sàng lọc và đưa ngay những người không còn đủ tư cách đảng viên ra khỏi Đảng. 7) Thực hiện nghiêm việc kê khai tài sản, thu nhập theo quy định; xây dựng và hoàn thiện cơ chế giải trình và giám sát việc tăng giảm tài sản của cán bộ, đảng viên. Cơ quan đề xuất đề bạt, bổ nhiệm cán bộ phải tiến hành thẩm định, xác minh, đánh giá tính trung thực của việc kê khai tài sản, thu nhập và công khai theo quy định. 8) Xây dựng quy định xử lý những tập thể, cá nhân suy thoái nghiêm trọng về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, có lời nói và việc làm biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" nghiêm trọng. Người đứng đầu cơ quan, tổ chức đảng phải chịu trách nhiệm nếu không kịp thời phát hiện hoặc phát hiện mà chậm xử lý đối với các biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa". 4- Về phát huy vai trò của nhân dân và Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội 1) Các cấp ủy, chính quyền phải nhận thức sâu sắc, quán triệt và thực hiện nghiêm Quyết định số 217-QĐ/TW về quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội và Quyết định số 218- QĐ/TW, ngày 12-12-2013 của Bộ Chính trị quy định về việc Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền . 2) Tăng cường công tác dân vận của Đảng và của chính quyền; phát huy vai trò giám sát của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội, của nhân dân, báo chí và công luận trong đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong cán bộ, đảng viên. Thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả phương châm dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra. Trước mắt, tập trung giải quyết kịp thời, dứt điểm những vấn đề bức xúc của nhân dân. 3) Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp, bảo đảm mọi chính sách, pháp luật của Nhà nước phải theo đúng Cương lĩnh, đường lối, chủ trương của Đảng và phải xuất phát từ nguyện vọng chính đáng, quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân. 4) Người đứng đầu cấp ủy, chính quyền các cấp phải thực hiện nghiêm túc việc tiếp dân định kỳ hoặc đột xuất để tiếp nhận thông tin, lắng nghe, đối thoại trực tiếp và xử lý những phản ánh, kiến nghị của nhân dân, nhất là những biểu hiện suy thoái, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong cán bộ, đảng viên. Xây dựng và thực hiện Quy định về việc lấy ý kiến đánh giá sự hài lòng của người dân đối với cơ quan, cán bộ, công chức trực tiếp giải quyết công việc của người dân và doanh nghiệp; có hình thức xử lý đối với những tổ chức, cá nhân có chỉ số hài lòng thấp. 5) Xây dựng và thực hiện cơ chế bảo vệ, khuyến khích người dân phản ánh, tố giác và tích cực đấu tranh phòng, chống suy thoái, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa". 1- Bộ Chính trị ban hành Kế hoạch thực hiện, xác định rõ nhiệm vụ của các cơ quan, tổ chức đảng ở Trung ương và trực thuộc Trung ương; phân công cụ thể và chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện Nghị quyết. 2- Đảng đoàn Quốc hội, Ban cán sự đảng Chính phủ chỉ đạo các cơ quan chức năng nghiên cứu, thể chế hóa, cụ thể hóa nội dung Nghị quyết thành các văn bản pháp luật để thực hiện. 3- Các ban đảng, ban cán sự đảng, đảng đoàn, tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy, cơ quan trực thuộc Trung ương tổ chức học tập, quán triệt, chủ động xây dựng kế hoạch, đề án cụ thể để thực hiện có hiệu quả Nghị quyết. Ban Chấp hành Trung ương tin tưởng rằng, với truyền thống cách mạng vẻ vang và bản chất tốt đẹp của Đảng, ý thức tự giác của từng cán bộ, đảng viên, sự gương mẫu của từng đồng chí Ủy viên Trung ương, người đứng đầu cấp ủy, chính quyền các cấp và được nhân dân đồng tình, ủng hộ, nhất định toàn Đảng sẽ thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ Nghị quyết, để Đảng ta thật sự vững vàng về chính trị và tư tưởng, thống nhất cao về ý chí và hành động, trong sạch về đạo đức và lối sống, chặt chẽ về tổ chức, đủ sức lãnh đạo đưa đất nước ngày càng phát triển, xứng đáng với lòng tin yêu của nhân dân. Nghị quyết này phổ biến đến chi bộ. Have a nice day!Câu chuyện điều tiết ngân sách luôn có những ý kiến trái chiều, địa phương nghèo thì muốn được trung ương bổ sung nhiều hơn, địa phương giàu thì muốn bị điều tiết về trung ương ít hơn. Gần đây, một số lãnh đạo chủ chốt thành phố Hồ Chí Minh, một số tờ báo đã lên tiếng không tán thành chủ trương điều chỉnh phần giữ lại cho thành phố giai đoạn 2017-2020 từ 23% xuống còn 18%, nhiều ý kiến cho rằng chỉ nên giảm 2% tức là thành phố được giữ lại 21%.
Báo Nhân Dân điện tử ngày 22/10/2016 dẫn ý kiến các đại biểu Quốc hội đoàn thành phố Hồ Chí Minh: “Một số đại biểu tỏ ra lo ngại nếu bị cắt giảm đột ngột, ngân sách của thành phố Hồ Chí Minh sẽ không đủ để đáp ứng nhu cầu về ổn định an ninh trật tự, tội phạm, ma túy. Người dân vì thế sẽ không yên tâm đầu tư sinh kế, làm ăn, du lịch cũng từ đó mà giảm mạnh”. [1] Bà Nguyễn Thị Quyết Tâm (Phó Bí thư Thành ủy thành phố Hồ Chí Minh cho rằng “nếu bị giảm tỷ lệ ngân sách được giữ lại, thành phố Hồ Chí Minh chỉ còn cách cắt giảm chi đầu tư cho phát triển hạ tầng”! [2] Được biết không chỉ thành phố Hồ Chí Minh bị giảm tỷ lệ giữ lại mà Hà Nội cũng bị điều chỉnh tỷ lệ giữ lại tại địa phương từ 42% xuống 28%; Đà Nẵng giảm từ 85% xuống 68%. Như vậy trong khi thành phố Hồ Chí Minh bị giảm 5% thì Hà Nội là 14% và Đà Nẵng là 17%, tỷ lệ giảm của hai thành phố này gần gấp 3 lần thành phố Hồ Chí Minh. Từ các ý kiến truyền thông đăng tải ở trên, có thể thấy vấn đề mà lãnh đạo thành phố Hồ Chí Minh đặt ra cho trung ương là (nếu vẫn) bị cắt giảm 5% phần ngân sách giữ lại thì thành phố này sẽ đối phó bằng cách “giảm đầu tư hạ tầng”, và sẽ không “đáp ứng nhu cầu ổn định an ninh trật tự, tội phạm, ma túy”?
Khi thành phố Hồ Chí Minh chưa bị giảm kinh phí, tình hình an ninh trật tự như thế nào? Xin điểm qua một số thông tin trên các phương tiện truyền thông đại chúng: Thanhnien.vn ngày 18/8/2015 viết: “Truy sát kinh hoàng ở Sài Gòn: 'Bọn nó chém từ trên đầu chém xuống hòng giết tôi”; Vnexpress.net ngày 7/3/2016 viết: “Nam thanh niên bị chém đứt lìa tay sau cuộc truy sát” (tại quận Gò Vấp); Thanhnien.vn ngày 21/10/2016 viết: “Bị người lạ mặt chém gần lìa cánh tay trên đường phố Sài Gòn”; … Có sai không nếu cho rằng khi không bị cắt giảm 5% ngân sách thì lãnh đạo thành phố sẽ giữ được “ổn định an ninh trật tự, tội phạm, ma túy” theo tình trạng như hiện nay tức là các vụ đâm chém trên đường phố sẽ vẫn tiếp diễn? Vậy đâu là nguyên nhân khiến tội phạm ma túy, trộm cướp, giết người tại thành phố này nhiều năm qua vẫn “ổn định”? Đại tá Trần Đức Tài, Phó Giám đốc Công an thành phố Hồ Chí Minh ngày 25/6/2016 đã nêu câu trả lời: “6 tháng qua trên địa bàn thành phố, các vụ giết người tăng cao. Trong đó 70 - 80% là do mâu thuẫn cá nhân trong cuộc sống, đặc biệt là khi ăn nhậu”. [3] Hãy cùng nhau xem cư dân mạng bình luận về nét văn hóa đặc trưng của Sài Gòn: “Vì sao người Sài Gòn lại khoái nhậu?”; [4] “Nhậu” - nét văn hóa đặc trưng của Sài Gòn”; [5] "Văn hóa nhậu" của người Sài Gòn…"; [6] Vậy lý do mà các vị lãnh đạo cao nhất thành phố Hồ Chí Minh đưa ra về “an ninh trật tự, tội phạm, ma túy” có thực sự là do thiếu tiền hay do ý thức công dân, do cách thức lãnh đạo, năng lực của đội ngũ cán bộ bảo vệ pháp luật thành phố này có gì đó chưa đáp ứng nhu cầu? Cho đến nay chưa thấy Hà Nội và Đà Nẵng có phản ứng như thành phố Hồ Chí Minh, phải chăng chỉ có thành phố Hồ Chí Minh là “bị thiệt” nên không thể không đề xuất ý kiến? Còn nhớ thời kháng chiến chống Mỹ, người Việt bất kỳ ở đâu cũng thuộc lòng câu nói: “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”. Tất cả vì tiền tuyến, vì miền Nam ruột thịt, truyền thống ấy ngày nay liệu có còn nguyên vẹn? Nếu nghĩ đến biển bị đầu độc, thiên tai, lụt lội hoành hành, ngư dân bốn tỉnh miền Trung đang trông chờ cứu trợ thì có nên mặc cả với trung ương, rằng thiếu tiền thì không bảo đảm “an ninh trật tự, tội phạm, ma túy”? Tuy nhiên, người viết đồng tình với một số ý kiến, rằng không thể để tồn tại tình trạng một số địa phương hoàn toàn không có khó khăn, nhưng năm nào cũng nhận tiền điều phối từ trung ương. Thậm chí người ta còn không biết xấu hổ khi đề xuất kinh phí hàng nghìn tỷ xây quảng trường, tượng đài, khi đề bạt vô tội vạ chức danh lãnh đạo cho bộ máy công quyền như tại Sở Lao động – Thương binh và Xã hội Hải Dương, hay tiêu xài đến nỗi hết tiền phải báo cáo xin bổ sung kinh phí như tại Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy tỉnh này. Một số địa phương nhận tiền điều tiết từ ngân sách trung ương nhưng lại tiêu xài tùy tiện khiến kiểm toán Nhà nước phải kiến nghị thu hồi tới 1.608 tỷ đồng (An Giang 563 tỷ đồng, Vĩnh Long 297 tỷ đồng, Thanh Hóa 289 tỷ đồng, Hưng Yên 109 tỷ đồng...). [7] Đất nước không thể quay lại thời bao cấp, tất cả cùng đói như nhau, tư duy kinh tế mới là phải tạo những đặc khu, những vùng trọng điểm, những địa phương phát triển nhanh để hỗ trợ các địa phương khó khăn vươn lên, nhưng như thế không có nghĩa là 13 tỉnh, thành phố cứ phải nai lưng nuôi 50 tỉnh, thành còn lại. Cũng không có nghĩa là khi được ưu tiên thì xem đó là của riêng, không cần quan tâm đến khó khăn chung của đất nước. Nợ công tăng cao, ngân sách thiếu hụt có nhiều nguyên nhân, một trong các nguyên nhân là chính sách chia tách đơn vị hành chính địa phương cả nước. Một số tỉnh diện tích chưa đến 1.000 km vuông như Hà Nam, Bắc Ninh, Hưng Yên. Trong khi tỉnh Quảng Ninh có chiều dài mấy trăm cây số từ giáp Hải Dương đến tận Móng Cái thì chỉ cần một giờ xe chạy là có thể đi suốt chiều dài tỉnh Hưng Yên, Bắc Ninh hay Hà Nam! Bộ máy công quyền các tỉnh nhỏ cũng đầy đủ sở, ban, ngành và đương nhiên số tiền phải chi cho lương công chức, phương tiện giao thông, trụ sở, đoàn thể… không kém bất kỳ tỉnh nào khác. Không có chuyện ông Chủ tịch tỉnh bé thì dùng xe bé và lương thấp hơn ông Chủ tịch tỉnh to, cũng không có chuyện tỉnh bé thì trụ sở Ủy ban và Tỉnh ủy bé hơn tỉnh to… Trở lại câu chuyện của thành phố Hồ Chí Minh, trong phiên họp Chính phủ thường kỳ ngày 29/10, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã chỉ rõ: “Tuy tỷ lệ có giảm đi, nhưng con số tuyệt đối lại tăng lên. Chưa kể như thành phố Hồ Chí Minh còn được Trung ương đầu tư 5 dự án ODA với số vốn gần 100.000 tỷ đồng, các dự án chống ngập, xây dựng 2 bệnh viện lớn trị giá hàng chục nghìn tỷ đồng. Đà Nẵng cũng tương tự như vậy. Thêm vào đó là nhiều nguồn thu như từ đất đai được để lại toàn bộ cho các địa phương”. Thủ tướng cũng yêu cầu thành phố Hồ Chí Minh phải công khai, minh bạch, giải thích rõ cho dư luận hiểu, tránh tình trạng “thấy cây mà không thấy rừng”. [8] Từ nhận định của Chính phủ và Ngân hàng Thế giới trong báo cáo tổng quan Việt Nam 2035, từ ý kiến của Thủ tướng có thể thấy một thực tế, tình trạng cát cứ đang là một rào cản cho sự phát triển cả nước, lãnh đạo địa phương nếu chỉ “thấy cây mà không thấy rừng”, chỉ thấy tỉnh mình, thành phố mình mà không quan tâm đến cả nước thì quốc gia, dân tộc có còn thống nhất, có tập trung được sức mạnh đối phó với thù trong, giặc ngoài? Từ các đòi hỏi về in Sách giáo khoa riêng, tổ chức thi quốc gia tốt nghiệp Trung học Phổ thông riêng cho tới các phát biểu về ngân sách, các yêu cầu cứu trợ khẩn cấp mỗi khi có thiên tai… có thể thấy một số quan chức quả thật đang thấy cây mà không thấy rừng. Hoặc là họ muốn địa phương nhận được thật nhiều trợ cấp từ Nhà nước mà chẳng cần động não suy nghĩ, hoặc là họ đang muốn biến địa phương mình thành ốc đảo chứ không phải một đầu tàu kinh tế giúp đỡ các nơi khó khăn hơn mình. Liệu Nhà nước đã nên ban hành một quy định, nếu tỉnh nào không nuôi nổi bộ máy công quyền tỉnh mình thì lãnh đạo phải từ chức, sau bao nhiêu năm mà ngân sách Nhà nước vẫn phải hỗ trợ thì chia tách, ghép thành đơn vị hành chính mới? Ý kiến trên có thể cực đoan nhưng là cần thiết để đất nước không còn mang đặc trưng là đất nước ăn xin bởi 80% số tỉnh thành phải trông vào cứu trợ từ trung ương, chỉ có 20% tự nuôi nổi mình và cáng đáng cho các tỉnh khác. Tài liệu tham khảo: [1] http://ift.tt/2f33gKN [2] http://ift.tt/2dR6pZf [3]http://ift.tt/2f2Z4KZ [4] http://ift.tt/2eVAx7L [5] http://ift.tt/2f351r9 [6] http://ift.tt/2eVGlhe [7] http://ift.tt/2f30C7H [8]http://ift.tt/2frP3r1 Have a nice day!LTS: Hệ thống chính trị Việt Nam trên nguyên tắc "Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ", xét về bản chất thì quyền lực Nhà nước thuộc về Nhân dân, ủy quyền cho Nhà nước. Tuy nhiên khi ủy quyền, nếu không có kiểm soát quyền lực rất dễ dẫn đến tha hóa, vụ lợi, do đó cần sự đồng lòng kiểm soát của các lực lượng trong xã hội. Mới đây, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng nói về giải pháp kiểm soát quyền lực là "phải nhốt quyền lực vào trong lồng quy chế lập pháp". Hưởng ứng điều này, Tiến sĩ Trịnh Tiến Dũng (Nguyên Trợ lý Giám đốc, kiêm Trưởng Ban Quản trị Quốc gia UNDP Việt Nam) đã có bài viết bình luận cho rằng "lồng quy chế" đó chính là giám sát xã hội. Tòa soạn trân trọng gửi đến độc giả! Chiều 17/10 trong đợt tiếp xúc cử tri quận Hoàn Kiếm (Hà Nội), Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nói “phải nhốt quyền lực vào trong lồng quy chế lập pháp”. Tiếp đó, sáng 26/10/2016 bên lề kỳ họp Quốc hội, ông Phạm Minh Chính (Trưởng ban tổ chức trung ương Đảng) cũng nói: “Trung ương đang xây lồng quy chế để nhốt quyền lực”. Đó là chủ trương đúng đắn và được cử tri và người dân khắp cả nước ủng hộ vì vấn nạn lạm dụng quyền lực đã lên đến đỉnh điểm, thách thức nghiêm trọng cả hệ thống chính trị và dư luận xã hội.
Khi vấn nạn này được các chính các vị lãnh đạo Đảng nói ra trước công luận thì vấn đề sẽ được quan tâm hơn nhiều. Thực ra cơ chế “nhốt” quyền lực không phải bây giờ mới được quan tâm xây dựng. Khuôn khổ chính sách và pháp luật, các thiết chế, bộ máy trong Đảng, Nhà nước và cả trong xã hội đã được xây dựng và đưa vào thực hiện cách đây trên mười năm. Chẳng hạn: Luật về hoạt động giám sát của Quốc hội 2003, năm 2015 Quốc hội sửa đổi thành Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng Nhân dân, Luật khiếu nại tố cáo, Pháp lệnh dân chủ cơ sở (2007)… Mặc dù khuôn khổ pháp luật còn chưa hoàn thiện, đồng bộ và cần tiếp tục điều chỉnh, sửa đổi nhưng đó không phải là căn nguyên chính của vấn nạn lạm dụng quyền lực. Vấn đề cốt lõi là hiệu lực và hiệu quả của công tác giám sát hoạt động của các cơ quan công quyền. Rõ ràng là hiệu lực và hiệu quả giám sát thông qua hệ thống thiết chế chính thống còn rất hạn chế. Vậy đâu là giải pháp hữu hiệu nhất để có thể “nhốt” quyền lực trong điều kiện một đảng cầm quyền như ở Việt Nam? Việc chỉ “đi bằng một chân”, tức giám sát bởi các cơ quan dân cử, kể cả với sự hợp sức của các tổ chức chính trị - xã hội liệu có thể chặn đứng được vấn nạn lạm dụng quyền lực hay không? Kinh nghiệm thế giới và ở Việt Nam cho thấy việc giám sát bởi hệ thống các cơ quan dân cử là kênh quan trọng, có tính nền tảng, không thể thay thế và đã phát huy hiệu quả cao, nhất là ở thời gian đầu khi “dân trí” còn thấp. Tuy vậy, thực tiễn đã cho thấy “kênh” này còn nhiều hạn chế như: không thể bao quát hết mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, chi phí giám sát cao, không tương xứng với lợi ích thu được và trong một số trường hợp có thể bị xung đột lợi ích. Chẳng hạn, một vị trưởng ngành lại vừa là Bí thư đảng ủy cơ quan Bộ lại vừa là đại biểu Quốc hội – cơ quan quyền lực cao nhất của quốc gia. Vậy “lồng” nào có thể “nhốt” được quyền lực khi cái chung và cái riêng xung đột với nhau? Kinh nghiệm ở Việt Nam chỉ ra rằng giám sát xã hội có thể bổ sung cho khiếm khuyết nêu trên của hệ thống giám sát chính thống (tương tự như thị trường có thể làm rất tốt nhiều việc thay cho những việc mà trước đây chỉ có Nhà nước làm). Nó có vai trò to lớn trong việc giám sát hoạt động của các cơ quan công quyền, nhất là ở cấp cơ sở nhằm kiểm soát và chế ngự việc lạm dụng quyền lực để tham ô, tham nhũng các nguồn lực công. Chẳng hạn: tiền Chính phủ hỗ trợ thủy lợi phí cho nông dân ở thôn Ngọc Nha Hạ (xã Phùng Hưng, huyện Khoái Châu, Hưng Yên) bị cán bộ thôn ỉm đi suốt 16 năm nay [2] Ví dụ này tuy không lớn nhưng thông điệp của nó không hề nhỏ: cần đề cao và phát huy vai trò của giám sát xã hội thì mới có thể thực sự “nhốt” quyền lực vào không chỉ lồng quy chế pháp luật, mà rộng lớn hơn… vào lưới trời lồng lộng, qua hàng chục triệu tai, mắt của người dân. Hoạt động giám sát xã hội được quy định chung trong Hiến pháp 2013 [3] và được quy định cụ thể trong Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2015). Đặc biệt Luật Mặt trận Tổ quốc dành hẳn Chương V (từ Điều 25-31) nói về hoạt động mang tính chất xã hội này. Tư liệu tham khảo: [1] Có thể định nghĩa giám sát xã hội (GSXH) là hoạt động tập thể của cộng đồng công dân nhằm mục đích tăng cường tính giải trình trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước và các đơn vị cung cấp dịch vụ công trong việc thực thi trách nhiệm của họ đối với công dân, trước hết là trong lĩnh vực cung cấp. [2] http://ift.tt/2eVDtkK [3] Điều 2, 8... Bài viết thể hiện quan điểm, nhận thức, góc nhìn và cách hành văn của riêng tác giả. Have a nice day!LTS: Là một giáo viên nhiều năm đứng lớp, cô giáo Phan Tuyết có bài viết thể hiện quan điểm cho rằng việc bắt giáo viên soạn mới giáo án hàng năm trong khi nội dung vẫn như cũ là một điều bất cập. Từ phản ánh này, cô giáo Phan Tuyết cũng kiến nghị chỉ những giáo viên thay đổi môn dạy, đối tượng học mới nên thay giáo án, còn lại nếu nội dung bài giảng vẫn như thế thì không cần thay mới nhằm giúp tiết kiệm tiền bạc, thời gian, công sức. Tòa soạn trân trọng gửi đến độc giả! Đã từ lâu, giáo án lên lớp của giáo viên được thay bằng cụm từ “thiết kế bài dạy”. Lý giải cho điều này, một số cán bộ giải thích rằng giáo án và thiết kế bài dạy đều là kế hoạch giảng dạy của giáo viên dự định thực hiện cho một bài học, một tiết học. Giáo án được soạn một cách chi tiết từ những nội dung giáo viên sẽ giảng, những điều sẽ hỏi, dự kiến những câu trả lời của học sinh và những lời kết luận của giáo viên. Nhưng thiết kế bài dạy gọn nhẹ, đơn giản hơn nhiều giống như một tiến trình lên lớp của một bài học.
Bởi thế, một bài học cho 35 phút lên lớp, giáo viên chỉ cần thiết kế khoảng nửa trang giấy A4 là đạt yêu cầu. Nhìn vào thiết kế sẽ biết được bài học có mấy hoạt động, từng hoạt động triển khai nội dung gì và sử dụng hình thức nào… Đây được xem như phần hình thức, còn phần nội dung chi tiết thường nằm trong đầu từng giáo viên. Bởi thế chẳng giáo viên nào lên lớp lại đi nhìn thiết kế để giảng dạy, cho nên, thiết kế chỉ được soạn và in ra khi có đợt kiểm tra của tổ, của trường cho đủ hồ sơ sổ sách. Cũng vì vậy, hàng xấp thiết kế cũ của năm học trước nhưng vẫn còn mới nguyên cũng không thể dùng lại vì đã “hết hạn sử dụng”, qua đợt kiểm tra. Trước những tập giấy phế liệu, có người tiếc vì bao công sức mình đã bỏ ra đầu tư cho việc soạn thiết kế nay bỗng chốc vứt đi, mà để lại sang năm cũng không thể đem ra sử dụng vì trường buộc giáo viên phải có thiết kế mới hàng năm. Thiết kế thuộc nằm lòng vì năm nào cũng dạy chừng ấy nên phần lớn giáo viên cũng chẳng phải bỏ nhiều công sức để soạn, ai ai cũng đã có sẵn thiết kế cũ trong máy tính chỉ cần sửa ngày tháng năm là in ra ngay một bộ mới. Trường hợp ai đó chuyển khối, thầy cô chỉ cần xin đồng nghiệp bộ thiết kế cũ, cần vài thao tác chỉnh sửa tên, ngày tháng, lớp là lập tức có ngay bộ thiết kế cho riêng mình. Có cần soạn thiết kế hay không? Câu trả lời đương nhiên là có, bởi mỗi giáo viên khi lên lớp phải có thiết kế bài dạy. Soạn bài, giáo viên mới nắm chắc nội dung kiến thức bài học để đề ra các phương pháp dạy học sao cho phù hợp với từng hoạt động, đưa ra được các hình thức, kĩ thuật dạy học phù hợp cho từng đối tượng học sinh, hay triển khai một số nội dung cần lồng ghép cho sinh động... Giáo viên có xem bài trước, mới đề ra được phương án, các tình huống Sư phạm để giúp học sinh giải quyết vấn đề một cách nhanh nhất, góp phần làm cho mỗi giờ học đạt hiệu quả cao hơn. Nhưng có giáo viên dạy lâu năm ở một khối, lớp nên từng bài, từng hoạt động dạy học đều thuộc như nằm lòng. Lên lớp dạy, giáo viên đâu cần phải nhìn chăm chăm vào thiết kế để dạy (trừ một số giáo viên tập sự, mới ra trường). Chưa nói đến việc nếu cần nhìn thiết kế cũ cũng chẳng vấn đề gì, bởi nội dung bài học không có gì thay đổi. Có nhiều giáo viên tâm tư: “Có bỏ sức đầu tư soạn giáo án công phu thế nào, từng bài dạy được đầu tư kĩ ra sao, thì sang năm cũng phải soạn lại”, vì điều này nhiều giáo viên không tập trung soạn nó một cách công phu nữa. Có nên quy định giáo viên mỗi năm soạn một thiết kế? Nội dung cần soạn bài không mới, giáo viên vẫn dạy khối lớp ấy, vậy tại sao không cho phép sử dụng lại bộ thiết kế cũ? Trường hợp có thay đổi về phương pháp dạy học, nội dung lồng ghép hay hình thức tổ chức các hoạt động của tiết học, thiết nghĩa chỉ cần linh động cho giáo viên ghi vào sổ bổ sung. Chỉ riêng trường hợp giáo viên sang năm đổi khối, mới buộc phải soạn thiết kế mới để kiểm tra. Nhà trường cần quản lý và đánh giá giáo viên thông qua từng tiết dạy, kết quả học tập và sự tiến bộ của học sinh, đừng nên đặt nặng vấn đề sổ sách gây áp lực không đáng có, ảnh hưởng đến chất lượng giảng dạy của các giáo viên. Have a nice day!Chắc rằng, một trong những lý do khiến truyện ngắn “Chí Phèo” sống mãi trong lòng công chúng là bởi tính thời sự của nó. Ngót 2/3 thế kỷ trôi qua nhưng những tình tiết tranh đấu giữa Bá Kiến – hình ảnh đại diện cho chính sách và Chí Phèo – đại diện cho thân phận con sâu cái kiến vẫn con nóng hổi trong bối cảnh xã hội mà nhiều người lầm tưởng rằng những Chí Phèo, Lão Hạc, Chị Dậu, ông giáo Thứ… chỉ là chuyện của thời thực dân phong kiến! Thực tế có đúng như vậy? Chính thời cuộc mà trực tiếp là chính sách thực dân phong kiến đã bần cùng hóa một con người hiền lành trở thành cặn bã xã hội, những “bà hai”, “bà ba”, “bà tư”… (vợ Bá Kiến) là hình ảnh tượng trưng không thể điển hình hơn của những phe nhóm lũng đoạn quyền lực bóp méo chính sách, góp phần không nhỏ vào “công cuộc” vùi dập những con người như anh Chí. Cần thấy rằng, lịch sử ra đời, tồn tại và phát triển hàng ngàn năm của phạm trù Nhà nước chưa bao giờ có kiểu thiết chế Nhà nước lấy tôn chỉ “bần cùng hóa dân chúng” làm trọng. Tuy nhiên Nhà nước nào cũng phải đối mặt với tình trạng “lệch chính sách”, mức độ của vấn đề này phụ thuộc vào đạo đức, trình độ, lương tâm của những người cầm cân nảy mực. Bởi chẳng có ông quan tài năng, đức độ nào đi làm cái việc tịch thu tài sản của dân, bức hại đến nhân dân, phương hại đến những người trực tiếp đóng góp tiền bạc công sức để nuôi sống gia đình, ban phát đặc quyền đặc lợi cho mình. Phải chăng những “bà Hai”, “bà Ba”, “bà Tư” và những ông Bá Kiến phiên bản mới đã thao túng chính sách, lũng đoạn quyền lực, chà đạp công lý khiến không ít trường hợp phải bứt còng, phá lệ để rồi vướng vòng lao lý!? Mấy ngày qua, xuất hiện thêm vụ việc liên quan đến… súng; anh Đặng Văn Hiến ở Đắc Nông dùng súng hoa cải xả vào đoàn cưỡng chế đất đai khiến 3 người chết và nhiều người bị thương.
Lý do khiến anh Hiến nổ súng là công ty Trách nhiệm Hữu hạn Long Sơn tổ chức san ủi, giải tỏa vườn cây nơi gia đình anh canh tác mà theo Chánh văn phòng Ủy ban Nhân dân tỉnh Đắc Nông, khu vực đất xảy ra tranh chấp chưa thể khẳng định là thuộc sở hữu của công ty này, đồng thời Ủy ban Nhân dân tỉnh đã có văn bản yêu cầu các doanh nghiệp có hoạt động tranh chấp đất với người dân giữ nguyên hiện trường. Giết người là trọng tội phải bị nghiêm trị nhưng ai đã cho phép công ty này phá hoại tài sản của người dân khi đúng sai chưa ngã ngũ? Ai ngang nhiên bẻ cong chỉ đạo của chính quyền để hậu họa là 3 mạng người và có thể là thêm một án tử? Kẻ nào chống lưng cho công ty Long Sơn coi thường văn bản chỉ đạo của Ủy ban Nhân dân tỉnh? Người viết chưa bao giờ có ý bênh vực cho trọng tội của tác nhân cầm súng giải quyết mâu thuẫn nhưng chắc chắn anh Hiến có quá ít chọn lựa trong trường hợp này, nếu không bảo vệ được đất đai, hoa màu thì gia đình, vợ, con anh ta sớm muộn cũng rơi vào phá sản rồi bần cùng chẳng khác nào anh Chí của Nam Cao. Mặt khác với thân phận “châu chấu” lấy đâu ra lý lẽ và tiềm lực để “đá voi”? Giá như công ty Long Sơn tôn trọng thực hiện văn bản của Ủy ban Nhân dân tỉnh, anh Hiến mang một thân phận khác và chính sách, luật pháp được thực hiện một cách công minh chính trực thì có lẽ sự thể đã không quá bi đát như vậy! Đây không đơn giản chỉ là vụ án hình sự và mấy mạng người oan uổng, mà cả một vấn đề nan giải về cái gọi là độ “lệch” của chính sách luật pháp đối với thực tiễn khách quan; đã chứng minh cho nguyên lý bất di bất dịch một khi xung đột lợi ích thì bạo lực đương nhiên xuất hiện. Theo ông Phạm Sĩ Liêm (Phó Chủ tịch Tổng hội Xây dựng Việt Nam), hiện có đến 80% khiếu kiện liên quan đến đất đai, trong đó chủ yếu là khiếu kiện bồi thường khi bị thu hồi đất. [1] Câu chuyện đất đai ở Việt Nam luôn nóng bỏng và phức tạp, thỉnh thoảng lại bùng phát dữ dội như kiểu “tức nước vỡ bờ”. Trong trường hợp này, hậu quả độ “lệch” của chính sách, luật pháp đã làm rối loạn lợi ích trong xã hội, anh Hiến có thể sẽ nhận bản án nặng nhưng vợ con anh, gia đình anh và những thế hệ tiếp theo sẽ sống sao với búa rìu dư luận? Sự mập mờ về chủ sở hữu của phần đất tranh chấp có trách nhiệm không nhỏ của chính quyền địa phương, hiệu quả hiệu lực ở đâu khi công ty Long Sơn ngang nhiên qua mặt chính quyền, hay là có sự thông đồng cấu kết nào ở đây để cướp đất người dân? Còn nhớ năm 2012, cả nước xôn xao vụ tranh chấp đất đai của ông Đoàn Văn Vươn và Ủy ban Nhân dân huyện Tiên Lãng. Đây được coi là đỉnh điểm về xung đột đất đai, khi có 4 công an, 2 quân dân bị thương, 6 người bị bắt và khởi tố còn một số cán bộ địa phương bị cách chức. Căn cứ vào kết luận của nguyên Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, thì vụ tranh chấp trên đã lộ rõ những bất cập về quy định của luật đất đai, việc thực thi pháp luật ở các địa phương và sự thiếu hiểu biết của người dân. Năm 2014 ở Cà Mau, xảy ra vụ việc chính quyền địa phương thu hồi đất để làm dự án công trình công cộng sau đó chia lô rao bán! [2] Ai đã ban phát cho những “công bộc” này cái quyền to hơn ông trời là thu hồi đất xong đem bán, có khác gì buôn bán trên mồ hôi nước mắt của nhân dân, đáng nói hơn giá bán chênh lệch với giá đền bù tới 10 lần! Những khoản chênh lệch khổng lồ này vào tay ai? Người dân sẽ mưu sinh bằng gì nếu đất đai bị đem bán? Có chính sách nào kỳ quái như vậy không? Thực sự, càng hỏi càng “khó” trả lời. Chỉ biết rằng sự méo mó về chính sách đã biến những người dân hiền lành vô tội trở thành những Chí Phèo đáng thương hơn đáng trách. Bất kể đó là ai cũng không nên và không có quyền bắt người dân phải hy sinh lợi ích của chính mình để phục vụ những điều phi lý, dân chủ thực sự phải là chính sách phục vụ người dân chứ không có chuyện người dân phục vụ chính sách, chính sách không bắt nguồn từ mong muốn của người dân chỉ có thể là chính sách sai lầm. Việc tranh chấp đất đai giữa chính quyền và người dân xảy ra với tính chất ngày một nghiêm trọng cho thấy rằng lợi ích, phương kế sinh nhai của người dân đang bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Với người dân của một quốc gia nông nghiệp có truyền thống hàng ngàn năm, đất đai không những là miếng cơm manh áo mà còn là di chỉ thiêng liêng của tổ tiên. Lịch sử Việt Nam đã chứng kiến bài học xương máu từ cuộc cách mạng ruộng đất, vậy nên, việc tranh chấp đất đai, xa hơn là tranh chấp lãnh thổ không thể xem là chuyện bình thường. Tài liệu tham khảo: [1] http://ift.tt/2eVAskf [2] http://ift.tt/2f30Bk9 Have a nice day!Còn lãng phí mua sắm trang thiết bị Đề án dạy và học ngoại ngữ trong trường phổ thông từ năm 2008 - 2020 (Đề án 2020) có tổng kinh phí 9.378 tỷ đồng, chia làm 3 giai đoạn; trong đó giai đoạn 2008 - 2010 là 1.060 tỷ đồng, giai đoạn 2011 - 2015 là 4.378 tỷ đồng, giai đoạn 2016 - 2020 là 4.300 tỷ đồng. Tuy nhiên, do một số nguyên nhân khách quan ảnh hưởng tới tiến độ Đề án nên Bộ Tài chính chưa cấp kinh phí để triển khai giai đoạn 1. Giai đoạn 2 có tổng kinh phí dự trù là 4.386 tỷ đồng (vốn trung ương: 3.500 tỷ). Tuy nhiên, do ngân sách nhà nước khó khăn nên vốn trung ương phân bổ trong giai đoạn này là 2.198 tỷ đồng, chỉ đạt 62,8% so với kế hoạch.
Trong giai đoạn 2011 - 2015, dự toán kinh phí địa phương là 889 tỷ đồng. Các địa phương đã huy động và bố trí kinh phí đối ứng đạt 1.628,5 tỷ đồng, bằng 183% dự toán. Lũy kế đến hết năm 2015, đã bố trí đạt 70,3% kinh phí dự toán giai đoạn 2008 - 2015 và đạt 40,83% tổng kinh phí của đề án. Nhìn tổng thể, một số mục tiêu của đề án được đặt ra quá cao so với khả năng thực hiện, chưa phù hợp với xuất phát điểm về năng lực của người dạy, người học cũng như thực trạng dạy học ngoại ngữ của cả nước. Bên cạnh những việc đã làm được, Bộ GD&ĐT nhìn nhận việc bố trí cơ cấu vốn và triển khai ở một số địa phương, đơn vị còn chưa hợp lý. Nhiều địa phương khi triển khai kinh phí tập trung vào đầu tư mua sắm trang thiết bị phục vụ dạy và học ngoại ngữ, chưa chú ý nhiều đến đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên ngoại ngữ. Một số địa phương khi mua sắm trang thiết bị chưa tính đến điều kiện, khả năng sử dụng, dẫn đến có nơi còn lãng phí. Bộ sẽ tập trung vào dạy và học tiếng Anh Trong thời gian còn lại của đề án, Bộ GD&ĐT cho biết sẽ tập trung chủ yếu là dạy và học tiếng Anh; nâng cao hiệu quả sử dụng ngân sách nhà nước và đẩy mạnh xã hội hóa trong đầu tư cho các hoạt động dạy và học ngoại ngữ; với nhiều giải pháp cụ thể. Bên cạnh nâng cao chất lượng đào tạo giáo viên, giảng viên ngoại ngữ, Bộ sẽ rà soát, xây dựng và ban hành chương trình dạy và học ngoại ngữ thống nhất; xây dựng hệ thống kiểm tra, đánh giá hội nhập với chuẩn quốc tế, xây dựng trung tâm khảo thí độc lập. Bộ cũng tích cực tạo môi trường học tiếng Anh như phong trào sinh viên tình nguyện dạy ngoại ngữ, câu lạc bộ ngoại ngữ, trao đổi giáo viên tình nguyện nước ngoài... Have a nice day!Ngoài ra, trong báo cáo của Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng cũng đề cập thẳng thắn tới việc triển khai dạy ngoại ngữ và thực hiện đổi mới chương trình, sách giáo khoa. Về việc triển khai mô hình trường học mới Thường trực Ủy ban cơ bản nhất trí đánh giá của Chính phủ về những ưu điểm cũng như tồn tại, hạn chế của việc triển khai mô hình trường học mới từ năm học 2011-2012 đến nay và phương hướng chỉ đạo thực hiện trong thời gian tới. Mô hình trường học mới coi trọng yêu cầu tự học, tự quản của học sinh, thể hiện tư duy mới về phương pháp dạy học, phù hợp với yêu cầu phát triển năng lực của học sinh. Tuy vậy, việc triển khai dự án trong thời gian qua còn chủ quan, nóng vộị, chưa bám sát điều kiện thực tiễn của địa phương và cơ sở giáo dục, chưa giải quyết đầy đủ các yêu cầu cần thiết khi triển khai mô hình như: Cơ sở vật chất, đội ngũ giáo viên, chương trình, sách giáo khoa và tài liệu học tập, do vậy hiệu quả triển khai mô hình còn hạn chế. Vì vậy, Thường trực Ủy ban đề nghị Chính phủ tập trung chỉ đạo tổng kết, đánh giá đầy đủ và khách quan công tác triển khai mô hình trường học mới, từ khâu xây dựng kế hoạch, lộ trình thực hiện, công tác chỉ đạo, điều hành, triển khai thực hiện và kết quả đầu ra của dự án; Phân tích, đánh giá sâu sắc ưu điểm, hạn chế, chỉ rõ nguyên nhân, rút kinh nghiệm, từ đó chắt lọc và phát huy những nhân tố tích cực của mô hình này. Bên cạnh đó, ngành giáo dục cần tiếp tục chủ động nghiên cứu đổi mới, sáng tạo trong tổ chức dạy và học, rút kinh nghiệm từ việc triển khai mô hình trường học mới để áp dụng các mô hình giáo dục tiên tiến với bước đi và cách thức thực hiện phù hợp với yêu cầu thực tiễn. Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội đánh giá: Dự án được triển khai trong thời gian ngắn, lại trên diện rộng với sự tham gia của gần 500.000 học sinh, song phương án liên thông chưa được chuẩn bị kỹ lưỡng, dẫn đến những khó khăn, bất cập đối với những cơ sở giáo dục và người học tham gia chương trình thí điểm, gây bức xúc trong dư luận xã hội.
Tổ chức dạy học ngoại ngữ trong trường phổ thông: Cần đi vào thực chất và hiệu quả! Nhận thức được tầm quan trọng của ngoại ngữ trong thời kỳ đẩy mạnh hội nhập, ngay từ năm 2006, Việt Nam đã đưa ngoại ngữ trở thành môn học bắt buộc trong chương trình giáo dục phổ thông (lựa chọn một trong các tiếng Anh, Pháp, Nga, Trung) và được triển khai chính thức từ lớp 6 đến lớp 12 (hệ 7 năm). Đến năm 2008, với việc đề án dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân giai đoạn 2008 – 2020 được phê duyệt và triển khai thực hiện, môn tiếng Anh được đưa vào giảng dạy trong nhà trường phổ thông là ngoại ngữ thứ nhất (môn học bắt buộc, được dạy trong 10 năm, từ lớp 3; gọi là hệ 10 năm). Bên cạnh tiếng Anh, một số ngôn ngữ khác cũng được giảng dạy như ngoại ngữ thứ nhất ngay từ cấp tiểu học (tiếng Pháp) hoặc từ cấp trung học cơ sở, trung học phổ thông (tiếng Nga, tiếng Trung); hoặc mới được thí điểm đưa vào dạy từ lớp 3 (tiếng Nhật). Hiện nay, ngành giáo dục đang chuẩn bị kế hoạch đưa các môn học tiếng Nga và tiếng Trung từ hệ 7 năm thành hệ 10 năm. Thường trực Ủy ban cho rằng, việc đưa nhiều ngoại ngữ vào giảng dạy trong nhà trường là xu thế tất yếu khách quan, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, quan hệ đối ngoại của quốc gia cũng như nhu cầu của học sinh và các địa phương. Tuy vậy, việc triển khai mở rộng đại trà hoạt động dạy và học đối với bất kỳ một ngoại ngữ nào trong hệ thống giáo dục quốc dân cũng đòi hỏi phải có sự chuẩn bị kỹ lưỡng, chu đáo về chương trình, tài liệu giảng dạy, đội ngũ giáo viên, cơ sở vật chất, thiết bị phục vụ dạy và học ngoại ngữ một cách thực chất và hiệu quả. Thường trực Ủy ban cơ bản nhất trí với Báo cáo của Chính phủ về một số khó khăn, thách thức trong việc dạy và học ngoại ngữ thời gian qua và cơ bản nhất trí với những đánh giá, nhận xét và giải pháp đề ra của Chính phủ và đề nghị một số vấn đề sau: Thứ nhất, cần có tổng kết, đánh giá nghiêm túc thực trạng triển khai dạy và học ngoại ngữ thời gian qua; đánh giá hiệu quả đạt được theo từng phân đoạn, so sánh với các chỉ tiêu đặt ra; Phân tích kỹ lưỡng, làm rõ những kết quả đạt được và nhất là những hạn chế, tồn tại và nguyên nhân để có những giải pháp kịp thời, phù hợp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục và làm căn cứ cho việc xây dựng định hướng và triển khai dạy và học ngoại ngữ trong những năm tiếp theo. Thứ hai, việc xác định ngoại ngữ nào được đưa vào giảng dạy, giảng dạy theo phương thức bắt buộc hay tự chọn và giảng dạy bắt đầu từ lớp mấy và thực hiện với quy mô, địa phương, cơ sở nào phải căn cứ trên nhu cầu thực tiễn cũng như khả năng đáp ứng về tài chính, chương trình, đội ngũ giáo viên và hệ thống học liệu, bảo đảm việc triển khai khả thi và có chất lượng. Bởi vậy, việc mở rộng số lượng ngoại ngữ đưa vào trường phổ thông, số lượng ngoại ngữ bắt buộc cần được cân nhắc kỹ lưỡng trên cơ sở nhu cầu thực tiễn của từng địa phương cũng như sự chuẩn bị các điều kiện bảo đảm chất lượng, đặc biệt là về đội ngũ giáo viên. Thứ ba, cần nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng giáo viên. Hiện nay, chất lượng đội ngũ giáo viên dạy ngoại ngữ ở phổ thông của nước ta còn rất nhiều hạn chế, chưa bảo đảm cả về số lượng và năng lực để có thể đảm đương tốt nhiệm vụ được giao. Việc dạy ngoại ngữ nào hiện nay mới dừng ở mức do trường, lớp quy định và học sinh chỉ được chọn trong số những ngoại ngữ mà nhà trường, lớp có tổ chức dạy học. Đội ngũ giáo viên ngoại ngữ thiếu, năng lực của giáo viên không đồng đều giữa các khu vực, địa phương, đặc biệt là giáo viên đáp ứng được yêu cầu về trình độ và năng lực dạy ngoại ngữ theo Khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc. Hình thức, phương pháp dạy và học còn chậm đổi mới; điều kiện cơ sở vật chất còn chưa đáp ứng; môi trường giao tiếp ngoại ngữ còn hạn chế; học sinh thiếu động cơ học tập đối với môn ngoại ngữ... Nếu không cải thiện được tình trạng này thì khó có thể thực hiện thành công đề án dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân. Đổi mới nội dung, chương trình giáo dục: Tiến độ thực hiện đề án rất chậm! Về chương trình giáo dục phổ thông, triển khai thực hiện Nghị quyết số 88/2014/QH13 của Quốc hội khóa XIII về đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông, Chính phủ đã quan tâm chỉ đạo và đạt được một số kết quả đáng khích lệ bước đầu. Tuy vậy, từ sau khi Chương trình tổng thể được công bố vào tháng 7/2015, tiến độ thực hiện đề án rất chậm. Các điều kiện để đảm bảo thực hiện chương trình giáo dục phổ thông mới chưa có nhiều chuyển biến; Đề án bảo đảm cơ sở vật chất cho chương trình giáo dục mầm non và giáo dục phổ thông chưa ban hành. Trong khi đó, thời hạn dự kiến đưa vào áp dụng đại trà chương trình giáo dục mới đang đến gần (năm học 2018-2019).
Từ những đánh giá trên, Thường trực Ủy ban nhận thấy Báo cáo của Chính phủ chưa nêu rõ kế hoạch và giải pháp cụ thể trong thời gian tới để đảm bảo tiến độ và chất lượng như yêu cầu của Nghị quyết. Về nội dung, chương trình giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học, báo cáo của Chính phủ cho thấy, các cơ sở giáo dục đã có nhiều giải pháp đổi mới nội dung, chương trình giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp. Tuy vậy, chương trình, nội dung vẫn còn thiếu sự gắn kết giữa đào tạo với thực tiễn, thiếu sự liên thông giữa các loại hình đào tạo. Thường trực Ủy ban đề nghị Chính phủ chỉ đạo kịp thời việc xây dựng kế hoạch cụ thể để đẩy nhanh tiến độ tổ chức triển khai thực hiện chương trình, sách giáo khoa mới theo đúng tiến độ và yêu cầu Nghị quyết 88/2014/QH13 của Quốc hội. Tích cực chuẩn bị các điều kiện để đảm bảo thực hiện chương trình, sách giáo khoa mới. Đổi mới mạnh mẽ nội dung giáo dục đại học và sau đại học theo hướng hiện đại, phù hợp với từng ngành, nhóm ngành đào tạo và việc phân tầng của hệ thống giáo dục đại học. Chú trọng phát triển năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, đạo đức nghề nghiệp và hiểu biết xã hội, từng bước tiếp cận trình độ khoa học và công nghệ tiên tiến của thế giới. Nội dung giáo dục nghề nghiệp cần được xây dựng theo hướng tích hợp kiến thức, kỹ năng và tác phong làm việc chuyên nghiệp để hình thành năng lực cho người học như tinh thần Nghị quyết 29; ưu tiên tập trung cho việc nâng cao chất lượng đào tạo nghề nhằm đáp ứng nhu cầu doanh nghiệp và xã hội. Have a nice day!Cách đây ít phút, Bộ trưởng Bộ Công an – Thượng tướng Tô Lâm đã trình bày dự thảo Luật Cảnh vệ tại Quốc hội. Trong đó nói rõ mục tiêu cảnh vệ là người giữ chức vụ, chức danh cấp cao của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, bao gồm: Tổng Bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam; Chủ tịch nước; Chủ tịch Quốc hội; Thủ tướng Chính phủ; Nguyên Tổng Bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, nguyên Chủ tịch nước, nguyên Chủ tịch Quốc hội, nguyên Thủ tướng Chính phủ; Uỷ viên Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam; Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam; Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Phó Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch Quốc hội, Phó Thủ tướng Chính phủ; Bên cạnh đó, khách quốc tế đến thăm và làm việc tại Việt Nam là mục tiêu cảnh vệ, bao gồm: Người đứng đầu Nhà nước, cơ quan lập pháp, Chính phủ; Cấp phó của người đứng đầu Nhà nước, cơ quan lập pháp, Chính phủ, trên cơ sở có đi có lại; Khách mời của Tổng Bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ; Khách mời khác theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, trên cơ sở có đi có lại.
Dự thảo luật cũng quy định khu vực trọng yếu cảnh vệ bao gồm: Khu vực làm việc của Trung ương Đảng; Khu vực làm việc của Chủ tịch nước; Khu vực làm việc của Quốc hội; Khu vực làm việc của Chính phủ; Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh; Bảo tàng Hồ Chí Minh; Khu di tích Phủ Chủ tịch; Quảng trường Ba Đình; Đài tưởng niệm các Anh hùng liệt sỹ. Sự kiện đặc biệt quan trọng được cảnh vệ, gồm: Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng; Hội nghị của Ban chấp hành Trung ương Đảng; Kỳ họp của Quốc hội; Phiên họp của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Hội đồng Quốc phòng - An ninh, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ; Về lực lượng Cảnh vệ, dự thảo Luật quy định lực lượng Cảnh vệ thuộc Bộ Công an và lực lượng Cảnh vệ thuộc Bộ Quốc phòng, đồng thời quy định về tổ chức Cảnh vệ thuộc Bộ Công an và tổ chức Cảnh vệ thuộc Bộ Quốc phòng. Thẩm tra dự án Luật Cảnh vệ, Thượng tướng Võ Trọng Việt – Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng An ninh đánh giá, về cơ bản đồng tình với những nội dung do Bộ Công an trình. Tuy nhiên, có hai điểm Ủy ban Quốc phòng An ninh đề nghị nghiên cứu, điều chỉnh cho phù hợp với tình hình thực tế. Thứ nhất, về sử dụng vũ khí trong khi thi hành nhiệm vụ (Điều 23 dự thảo luật): Thượng tướng Võ Trọng Việt cho biết, đa số ý kiến cho rằng, việc nổ súng liên quan trực tiếp đến tính mạng, sức khỏe của con người. Vì vậy, việc cán bộ, chiến sĩ cảnh vệ nổ súng phải tuân thủ các nguyên tắc, quy định của dự thảo Luật quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ. Dự thảo Luật Cảnh vệ quy định nổ súng “để tiêu diệt” đối tượng đang có hành vi tấn công trực tiếp đối tượng cảnh vệ hoặc sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ cảnh vệ là chưa phù hợp với nguyên tắc “người sử dụng cần hạn chế thiệt hại do việc nổ súng gây ra” và cần bảo đảm điều kiện về “phòng vệ chính đáng” hoặc “tình thế cấp thiết” theo Bộ Luật hình sự. Để kịp thời ngăn chặn hành vi này, nhiều khi chỉ cần sử dụng các biện pháp nghiệp vụ, công cụ hỗ trợ hoặc bắn bị thương, vì nếu đối tượng còn sống sẽ thuận lợi hơn trong công tác xác minh, điều tra, xử lý vụ việc. Thứ hai, về huy động người, thực hiện trưng dụng tài sản, phương tiện để thực hiện công tác cảnh vệ (Điều 24): Thượng tướng Võ Trọng Việt cho hay, đa số ý kiến đồng ý với dự thảo Luật quy định trong trường hợp cấp bách để bảo đảm tuyệt đối cho đối tượng cảnh vệ, sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ cảnh vệ được quyền “huy động” người, phương tiện. Về thẩm quyền trưng dụng, đa số ý kiến cho rằng, theo quy định của Hiến pháp thì trong một số trường hợp cần thiết chỉ “Nhà nước” mới có quyền trưng dụng tài sản. Hiến định các nội dung này, tại các điều 24, 25, 26 Luật trưng mua, trưng dụng tài sản đã quy định rất chặt chẽ về thẩm quyền, nội dung và trình tự quyết định trưng dụng tài sản. Theo đó, chỉ giao một số Bộ trưởng và Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có quyền quyết định trưng dụng tài sản nhưng không được phân cấp thẩm quyền này. Tuy nhiên, dự thảo Luật quy định sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ được “thực hiện trưng dụng tài sản, phương tiện… theo quy định của pháp luật” là chưa rõ, dễ bị lạm dụng. Vì vậy, để bảo đảm tính thống nhất trong hệ thống pháp luật, đề nghị sửa lại trong trường hợp cấp bách, sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ cảnh vệ được “trưng dụng tài sản, phương tiện… theo Luật trưng mua, trưng dụng tài sản”. Một số ý kiến đề nghị làm rõ trường hợp cấp bách cần bổ sung quyền cho sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ cảnh vệ được “trưng dụng” tài sản, phương tiện và quy định cụ thể về trình tự, thời hạn trưng dụng; việc bàn giao, tiếp nhận tài sản, cơ chế báo cáo, giám sát, đồng thời cần bổ sung điều quy định về sửa đổi, bổ sung Luật trưng mua, trưng dụng tài sản để đảm bảo tính thống nhất trong hệ thống pháp luật và báo cáo xin ý kiến Quốc hội. Have a nice day! |
AuthorWrite something about yourself. No need to be fancy, just an overview. Archives
June 2017
Categories |