LTS: Nhân đọc bài viết hai bài viết "Rối loạn danh xưng trong trường học" và "Danh xưng, chứng chỉ, bằng cấp trong hệ thống giáo dục nước ta" đăng trên báo Điện tử Giáo dục Việt Nam, thầy giáo Nguyễn Phát Tài (giảng viên trường Cao đẳng Phát thanh - Truyền hình II) có những góp ý với mong muốn đóng góp thêm cách nhìn vì sự phát triển giáo dục nước nhà. Rộng đường dư luận và tôn trọng tranh luận đa chiều, Tòa soạn trân trọng gửi đến độc giả ý kiến riêng này của tác giả! Bằng cấp, chứng chỉ là cơ sở pháp lý để xác nhận chủ nhân của nó có một trình độ và năng lực phù hợp với một tiêu chuẩn nhất định. Ở đây có hai vấn đề cần được phân định rạch ròi văn bằng (degree) và chứng chỉ (certificate): Văn bằng là căn cứ xác định năng lực của chủ nhân ở một trình độ nào đó: bằng Tiến sĩ, bằng Thạc sĩ, bằng Đại học, bằng Cao đẳng, bằng Trung học Chuyên nghiệp, bằng Trung học Phổ thông... Chứng chỉ là căn cứ xác định năng lực của chủ nhân đủ khả năng làm một công việc cụ thể: Chứng chỉ Sư phạm - xác nhận cho người có bằng Đại học một ngành ngoài Sư phạm đủ khả năng dạy học; chứng chỉ hành nghề kế toán trưởng - xác nhận cho người có bằng Đại học, Cao đẳng ngành kế toán đủ khả năng làm công việc của một kế toán trưởng...
Danh hiệu đạt được trong văn bằng, tùy vào trình độ và ngành học mà người học được nhận danh hiệu tương ứng, danh hiệu này chính là học vị của người học và theo đó chúng ta có một số danh hiệu sau: Người tốt nghiệp Đại học sẽ có danh hiệu tùy vào ngành được đào tạo. Những người tốt nghiệp Đại học những ngành Khoa học Tự nhiên, Khoa học Xã hội, nghệ thuật, kinh tế... sẽ công nhận danh hiệu cử nhân. Những người tốt nghiệp Đại học những ngành thuộc khối kỹ thuật sẽ được công nhận danh hiệu kỹ sư. Những người tốt nghiệp Đại học các ngành về kiến trúc sẽ được công nhận danh hiệu kiến trúc sư. Những danh hiệu này chỉ phụ thuộc vào ngành được đào tạo chứ không phụ thuộc vào trường đào tạo và cũng không phụ thuộc vào công việc họ sẽ làm. Người nào học và hoàn thành chương trình đào tạo Thạc sĩ sẽ được cấp bằng và danh hiệu Thạc sĩ, nói đúng hơn danh hiệu Thạc sĩ là học vị của người có trình độ Thạc sĩ. Tương tự như vậy, người nào học và hoàn thành chương trình đào tạo Tiến sĩ sẽ được cấp bằng và danh hiệu Tiến sĩ. Tác giả bài viết "Rối loạn danh xưng trong trường học" đã sai sót khi cho rằng "... ai muốn làm nghiên cứu sinh để đạt học vị Tiến sĩ thì bắt buộc phải có bằng Thạc sĩ". Theo Điều 8, quy chế đào tạo tiến sĩ Ban hành kèm theo Thông tư số 10/2009/TT-BGDĐT ngày 07/5/2009 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo thì người dự vào trình độ Tiến sĩ cần có trình độ Đại học trở lên và cần đáp ứng thêm một vài yêu cầu về nghiên cứu khoa học. Người học Thạc sĩ là người cập nhật kiến thức theo hướng chuyên sâu có thể được phát triển từ khóa luận tốt nghiệp Đại học đã làm trước đây. Nghĩa là người học Thạc sĩ là người bắt đầu có kiến thức sâu về một chuyên ngành hẹp nào đó chứ không phải là "có kiến thức rộng do đi học mà có" như tác giả bài báo viết. Ngoài ra, học Thạc sĩ chính là học cách tự học, tự nghiên cứu theo hướng chuyên sâu chứ không đơn giản là "cập nhật kiến thức mới hơn so với lúc tốt nghiệp Đại học". Vì sau khi tốt nghiệp Thạc sĩ không ai lại đi học tiếp Thạc sĩ để cập nhật mà anh phải tự học, tự cập nhật. Thạc sĩ chính là bước đệm tốt để người học có định hướng tốt hơn cho một đề tài trong luận án khi làm nghiên cứu sinh. Tuy nhiên bước đệm này có thể sẽ không cần thiết nếu người thực hiện luận án tìm ra một hướng nghiên cứu mới. Tôi đồng ý với tác giả bài báo "Danh xưng, chứng chỉ, bằng cấp trong hệ thống giáo dục nước ta" rằng Thạc sĩ và Tiến sĩ không có tính liên thông. Về học hàm Giáo sư và Phó Giáo sư, tác giả đã quá khắc khe và nhầm nghĩa khi cho rằng "Phó" là cấp dưới, là "người giúp việc" cho cấp trưởng; từ đó phân vân rằng trong một bộ môn chuyên môn không có Giáo sư thì Phó Giáo sư giúp việc cho ai? Nhưng rõ ràng Giáo sư chưa phải là cấp trên của Phó Giáo sư do đó băn khoăn này không đúng. Xét về tính lịch sử từ "Phó" được sử dụng trong Phó Giáo sư bắt đầu xuất hiện trong các kỳ thi dưới thời nhà Nguyễn (từ thời vua Minh Mạng). Theo đó, những người không đậu Tiến sĩ trong kỳ thi Hội thì được ghi nhận là đậu "phó bảng" để phân biệt với người đậu "chính bảng". Từ đây, ta có thể hiểu "Phó" có nghĩa là thấp hơn, chưa bằng (kém hơn). Theo từ điển Tiếng Việt của Hoàng Phê, ấn bản 2016 (trang 988) định nghĩa: "Phó giáo sư (giáo sư cấp I) là học hàm của người nghiên cứu khoa học, giảng dạy ở bậc đại học, dưới giáo sư". Như vậy Phó Giáo sư và Giáo sư là hai học hàm ở hai mức độ khác nhau, độc lập lập nhau. Trong hệ thống giáo dục Việt Nam hiện nay Bộ Giáo dục và Đào tạo không cấp các danh hiệu Tiến sĩ chuyên ngành hay Tiến sĩ liên ngành. Quy chế đào tạo trình độ tiến sĩ của Bộ Giáo dục và Đào tạo chỉ quy định cấp bằng Tiến sĩ. Tuy nhiên trong thực tiễn chúng ta hay gặp cụm từ như Tiến sĩ khoa học. Sở dĩ như vậy là do "vướng mắc của lịch sử", trước đây chúng ta có học vị Phó Tiến sĩ và Tiến sĩ tương tự như Liên Xô và các nước Đông Âu. Khi đất nước hội nhập thì để thống nhất học vị với các nước Tây Âu và Hoa kỳ, chúng ta chuyển học vị Phó Tiến sĩ (trước kia) thành Tiến sĩ và Tiến sĩ (trước kia) thành Tiến sĩ khoa học. Cần lưu ý rằng từ "Phó" trong Phó Tiến sĩ được giải thích tương tự như Phó Giáo sư và Giáo sư. Have a nice day!
0 Comments
Ngày 30/9, Hiệp hội các trường Đại học, Cao đẳng Việt Nam đã tổ chức hội thảo “Tự chủ đại học - Cơ hội và thách thức” với sự tham dự của Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam, lãnh đạo các Bộ ban ngành và hàng trăm đại biểu đến từ các trường đại học, cao đẳng trên cả nước. “Câu chuyện tự chủ đại học không lạ trên thế giới nhưng chưa quen với ta. Ở các nước thì không có vấn đề nên hay không nên mà coi đó là một thuộc tính của giáo dục đại học, đã được quy định thành luật pháp. Còn ở nước ta thì vừa phải tiếp tục thuyết phục nhau nên thực hiện tự chủ đại học, vừa phải nghiên cứu cách thức tự chủ phù hợp với hoàn cảnh và thể chế chính trị kinh tế của nước ta”. Đó là lời mở đầu cuộc hội thảo của GS.Trần Hồng Quân – Chủ tịch Hiệp hội các trường Đại học, Cao đẳng Việt Nam. Trong thời gian 1 ngày diễn ra hội thảo, GS.Trần Hồng Quân đã có nhiều ý kiến nhắn nhủ tới các đại biểu đặc biệt là đại diện các trường trong công cuộc đổi mới căn bản toàn diện giáo dục hiện nay. Lý do tự chủ đại học chậm được xác lập Chủ tịch Hiệp hội các trường Đại học, Cao đẳng Việt Nam khẳng định: Sau hơn ba mươi năm đổi mới nhưng các lĩnh vực văn xã nói chung và giáo dục nói riêng vẫn còn mang đậm nét của cơ chế quan liêu bao cấp trong quản lý. Đó là lý do tự chủ đại học chậm được xác lập. Phải xóa bao cấp để tránh ỉ lại, phải xóa nghĩ thay làm thầy để tránh dựa dẫm, phải khắc phục sự ràng buộc để tránh tình trạng các trường phải “múa gậy trong bị”, phải xóa bỏ sự quản lý tập trung ngặt nghèo để các trường có động lực tự thân và có điều kiện khách quan để luôn luôn canh tân theo hướng tối ưu hoá để tồn tại và phát triển.
“Việc tự chủ về tài chính khiến cho không ít trường lo ngại nhưng rõ ràng, Chính phủ có quy định các bước đi trong một lộ trình hợp lý”, GS.Trần Hồng Quân nhấn mạnh. Đồng thời khi thực sự thực hiện tự chủ tài chính đầy đủ thì Nhà nước không phải hoàn toàn không đầu tư mà là sẽ đầu tư theo phương thức khác ví dụ như đặt hàng đào tạo, đặt hàng nghiên cứu khoa học, trong trường hợp đặc biệt có thể đầu tư xây dựng các phòng thí nghiệm chất lượng cao... Các trường tự lo nguồn thu là một trách nhiệm nặng nề, chỉ có thể thực hiện được bằng sự phấn đấu nâng cao chất lượng đào tạo và năng lực nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ. Về nguyên tắc, phải tiến tới các trường có quyền quyết định mức học phí để bù đủ chi phí đào tạo theo điều kiện bảo đảm chất lượng tương xứng của nhà trường (hiện nay tạm thời nhà nước còn quy định mức học phí tối đa cho các trường tự chủ và thay đổi dần theo lộ trình cần thiết để tránh sự đột ngột đối với người học). Với quyền tự chủ của mình các trường có thể huy động thêm vốn góp từ xã hội để cải thiện năng lực của mình và trong trường hợp đó thì các trường này sẽ trở thành một cơ sở đại học đa sở hữu chứ không còn thuần tuý là một trường công. Tự chủ đại học tạo ra sinh khí mới cho sự phát triển của đất nước GS.Trần Hồng Quân cho rằng: “Quá trình tự chủ giống như việc chúng ta cho đứa con ra ở riêng, ở riêng thì tự lập nhưng cũng có những khó khăn và thách thức. Với chủ trương tự chủ này, thái độ của các trường cũng khác nhau, hiện nay đã có 14 trường xin tự chủ, nhưng nhiều trường vẫn còn do dự”.
Khi bước vào tự chủ, một số trường hết sức hăng hái, hoan nghênh việc triển khai thực hiện tự chủ, coi như được giải phóng; có trường thì dè chừng cần có lộ trình hợp lý. Còn với các trường thiếu tự tin, ngần ngại việc xa rời bao cấp của ngân sách nhà nước, ngần ngại "bơi" trong bối cảnh tự lập thì không hoan nghênh tự chủ, coi đó như là sự buông tay thiếu trách nhiệm của nhà nước, họ mong muốn tiếp tục sống trong cơ chế quản lý tập trung như một sự núp bóng an nhàn. “Đương nhiên, bước đầu tự chủ sẽ có trường bứt phá vươn lên, chứ không có hiện trạng dàn hàng ngang đi lên, nhưng ngược lại cũng sẽ có trường buộc phải giải thể hoặc sáp nhập”, GS.Trần Hồng Quân nêu thực tế. Do đó, tự chủ phải có chủ trương hợp lý, khẩn trương kèm theo những chính sách hợp lý. Nếu không tự chủ không thể khởi sắc, hơn nữa giáo dục đại học trực tiếp liên quan đến phát triển đất nước. Khi nhìn vào tốc độ phát triển những năm gần đây, chúng ta cảm thấy lo lắng và cần phải khẩn trương tiến hành tự chủ đại học, để tạo ra sinh khí mới cho sự phát triển của đất nước. Phải có giảng buộc để tránh, quyết tâm quản lý tập trung để các trường tự lập, tránh áp đặt để các trường sáng tạo. Xây dựng các mô hình đại học tự chủ khác nhau Tự chủ đại học phải thực hiện đầy đủ trên 3 mặt: - Tự chủ thực hiện nhiệm vụ đào tạo, hoạt động khoa học có thể gọi tắt là tự chủ về học thuật. - Tự chủ về tài chính - Tự chủ về nhân lực. Phát biểu tổng kết hội thảo, GS.Trần Hồng Quân nhấn mạnh: “Tự chủ đại học là một chủ đề hết sức quan trọng, mang tính thời sự và đây cũng là một chủ đề khó đòi hỏi chúng ta cần phải chuẩn bị và mạnh dạn thực hiện".
Sau một ngày diễn ra hội thảo, hơn 300 đại biểu đã được nghe chỉ đạo của Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam, chỉ đạo thiết thực tháo gỡ nhiều suy nghĩ thắc mắc của các trường, của xã hội. Đồng thời, đại diện Bộ GD&ĐT, Thứ trưởng Bùi Văn Ga đã nêu lên kế hoạch của Bộ trong việc triển khai vấn đề tự chủ này. Cùng với 9 tham luận của các báo cáo viên đưa ra rất nhiều đề xuất, GS.Trần Hồng Quân mong muốn trước tiên cần tháo gỡ các quy định trong luật lao động, luật ngân sách và quy định về quản lý đào tạo, quản lý khoa học hiện hành, đặc biệt là các quy chế tổ chức hoạt động các loại cơ sở đào tạo đại học nhằm giải quyết các mối quan hệ: - Giữa trường và cơ quan quản lý mà cụ thể là Chính phủ, Nhà nước. - Giữa trường với người học. - Giữa trường và xã hội. - Và mối quan hệ tương quan trong nội bộ khi tiến hành tự chủ đại học. GS.Trần Hồng Quân cho rằng: Để tiến hành tự chủ đại học thuận lợi thì trước tiên cần tổ chức bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng cho cán bộ quản lý đại học để triển khai nhiệm vụ quan trọng này. Tiếp theo, cần tổ chức sự hợp tác quan trọng và đẩy mạnh nâng cao thi đua chất lượng trong quá trình tự chủ, đẩy mạnh quốc tế hóa giáo dục. Hiện nay sự kết hợp giữa Hiệp hội các trường Đại học, Cao đẳng Việt Nam, Hội đồng quốc gia giáo dục và Phát triển nhân lực và Bộ GD&ĐT tương đối mạnh mẽ với mong muốn phát triển giáo dục trong đó có vấn đề tự chủ đại học cần sớm triển khai nhằm tạo sinh khí mới cho các trường. Lý giải nguyên nhân kỳ vọng vào vấn đề tự chủ đại học, GS.Trần Hồng Quân cho rằng: “Khi tự chủ thì các trường sẽ sáng tạo, buộc phải sáng tạo để cảnh tỉnh, để phát triển. Sáng tạo để từng cá nhân thầy cô, cán bộ quản lý phấn đấu cho “chỗ đứng” của mình chứ không phải mặc nhiên đã là biên chế thì sẽ yên vị suốt đời, trường được thành lập thì mãi mãi tồn tại”. Mục tiêu phấn đấu, động lực tự thân của từng người, từng trường sẽ tạo ra động lực chung của nhà trường, tạo ra sinh khí phát triển mạnh mẽ trong toàn bộ hệ thống giáo dục. “Hiện nay mới có 14 trường tự nguyện đăng ký và được Chính phủ công nhận cho thí điểm tự chủ đại học. Sau hội thảo này, các trường đang thí điểm thì tiếp tục phấn đấu vươn lên hơn nữa qua những bài học đã trải qua, còn các trường đang chuẩn bị hoặc chưa chuẩn bị thì nên sớm sẵn sàng bắt tay vào thực hiện tự chủ theo lộ trình của Chính phủ đã quy định. Đây là một chủ trương lớn đầy triển vọng, nếu triển khai thành công rộng rãi thì nền đại học sẽ có bộ mặt mới năng động, thay đổi từng ngày để đáp ứng phát triển đất nước”, GS.Trần Hồng Quân kỳ vọng. Have a nice day!Khao khát một con đường đến trường Xã Thượng Trạch, huyện Bố Trạch (Quảng Bình) có hai trường Tiểu học. Trường Tiểu học số 1 đóng tại trung tâm xã, còn trường Tiểu học số 2 đóng tại bản Cờ Đỏ, cách trường số 1 khoảng 20km.
Đây là một địa bàn vùng sâu vùng xa, lại rất rộng nên sự nghiệp trồng người còn rất nhiều khó khăn và thiếu thốn. Trường Tiểu học số 2 Thượng Trạch có 10 điểm trường gồm những bản : sâu nhất, xa nhất, khó khăn nhất của xã. Trong 10 điểm trường này chỉ có 3 nơi được phủ sóng điện thoại, bản này cách bản kia cả chục cây số, có những bản thầy cô phải đi bộ gần cả ngày trời mới đến nơi. Tất cả các điểm trường có 20 phòng học, nhưng chỉ có 3 phòng kiên cố, 5 phòng bán kiên cố, 11 phòng tạm bợ và một phòng phải mượn nhà dân. Điểm trường trung tâm ở bản Cờ Đỏ có tất cả 49 em học sinh, trong đó có 11 lớp 1; 11 em lớp 2; 9 em lớp 3; 9 em lớp 4 và 5 em lớp 8.
Từ đường 20 đi vào khoảng 2km là điểm trường tiểu học, từ trường đến bản thêm gần 2km nữa mới đến bản Cờ Đỏ. Trước đây, đã có một đoạn đường bê tông để người dân đi vào bản, các em học sinh thuận lợi hơn trong việc đến trường. Thế nhưng, trận lũ năm 2013 đã khiến con đường này trở nên tan hoang, sụt lún, từng mảng bê tông bị đổ sập nằm rải rác dọc suối. “Vào mùa mưa, nước lũ từ khe suối lên xuống thất thường nên thầy trò chẳng biết đường nào mà lần. Chỉ cần một trận mưa vừa là thầy phải ra tận suối dắt các em qua. Còn nếu trời mưa to thì các em phải nghỉ học vì nước suối rất lớn, chạy rất hỗn loạn không thể nào qua được”, thầy Hoàng Bảo Tăng, một giáo viên cắm bản cho biết.
Theo các thầy giáo ở đây, 3 năm qua từ khi đoạn đường bị sập do lũ, cứ mỗi buổi sáng, tất cả các em học sinh tiểu học bản Cờ Đỏ lại rồng rắn rủ nhau đi men qua suối đến trường. Đến buổi trưa lại rồng rắn đi về nhà rồi chiều lại đến trường. Mỗi ngày đều đặn hai lượt đi và hai lượt về như thế, đường đến trường của các em thật chông chênh, đầy sỏi đá và trơn trượt. “Nhiều khi đang học thì trời đổ mưa lớn, thầy đành phải đưa trò về nghỉ sớm để đảm bảo an toàn. Có lần, vừa đưa các em qua suối xong thì nước lớn ào về. Nếu chậm một chút nữa thì không biết chuyện gì sẽ xảy ra”, thầy Tăng kể. Khó khăn, thiếu thốn thì nhiều lắm, nhưng mong muốn lớn nhất của thầy trò nơi đây là có được con đường để học sinh đi học đỡ vất vả và nguy hiểm. “Cái chữ gieo nơi miền biên viễn còn chông chênh lắm!” Trường Tiểu học số 2 Thượng Trạch có 38 giáo viên, 3 cô giáo làm công tác văn phòng, còn lại đều là thầy giáo chia nhau luân chuyển đi cắm bản.
Thầy Võ Anh Tuân - Hiệu trưởng nhà trường nói: “Trường Tiểu học số 2 Thượng Trạch đảm nhận sự nghiệp trồng người trên một địa bàn rộng lớn của xã gồm 10 điểm trường thuộc các bản “ba nhất”: sâu nhất, xa nhất, khó khăn nhất. Cái chữ gieo nơi miền biên viễn này vẫn còn chông chênh lắm!”. Chuyện ăn ở, sinh hoạt, cắm bản dạy học của những giáo viên Trường TH số 2 Thượng Trạch còn rất nhiều gian nan. Thầy giáo Hoàng Đức Cường, có 13 năm cắm bản ở nhiều điểm trường chia sẻ: “Khi đường tắc, học sinh nghỉ học, thầy giáo cũng phải xin “neo lại” với bà con đến khi trời hết mưa. Dân bản ăn gì, mình ăn đấy. Vì không sóng điện thoại nên không thông báo được cho Ban giám hiệu nhà trường, cho gia đình. Cũng vì lý do này mà lãnh đạo nhà trường có sáng kiến luân chuyển thường xuyên các thầy cắm bản, từ bản xa đến bản gần, từ bản phủ sóng điện thoại đến bản chưa phủ sóng... Nhưng toàn trường có 10 điểm trường thì chỉ có 3 điểm phủ sóng điện thoại. Vì vậy, để đến lượt thì các thầy phải chờ khá lâu”. Chưa nói đến những điểm trường lẻ, ngay điểm trung tâm tại bản Cờ Đỏ, ngoài dãy nhà hai tầng ra thì nhìn đâu cũng thấy thiếu thốn. Thiếu nhà nội trú cho giáo viên, thiếu phòng chức năng, thiết bị dạy học... Tạm bợ nhất là khu nhà bếp và nhà vệ sinh. Ở đây cũng không có sóng điện thoại, không nước sạch, không dịch vụ y tế, đường đi lại hết sức khó khăn. Vì cơ sở vật chất thiếu thốn, nhà trường không thể tổ chức bữa ăn bán trú cho học sinh. Vì vậy, dù đường đi rất khó khăn nhưng các em vẫn phải ngày hai buổi đến trường. “Ban giám hiệu nhà trường nhiều lần kiến nghị về bữa ăn bán trú cho học sinh. Nếu học sinh ăn bán trú thì các em sẽ đến trường chuyên cần hơn, an toàn hơn, chất lượng giáo dục cũng cản thiện hơn nhưng hiện tại, cơ sở vật chất, bếp ăn như thế nên chúng tôi không thể đáp ứng nhu cầu của học sinh được”, thầy Hiệu trưởng Võ Anh Tuân cho biết. Have a nice day!Ngày 30/9, Hiệp hội các trường Đại học, Cao đẳng Việt Nam đã tổ chức hội thảo “Tự chủ đại học - Cơ hội và thách thức” với sự tham dự của Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam, lãnh đạo các Bộ ban ngành và hàng trăm đại biểu đến từ các trường đại học, cao đẳng trên cả nước. “Câu chuyện tự chủ đại học không lạ trên thế giới nhưng chưa quen với ta. Ở các nước thì không có vấn đề nên hay không nên mà coi đó là một thuộc tính của giáo dục đại học, đã được quy định thành luật pháp. Còn ở nước ta thì vừa phải tiếp tục thuyết phục nhau nên thực hiện tự chủ đại học, vừa phải nghiên cứu cách thức tự chủ phù hợp với hoàn cảnh và thể chế chính trị kinh tế của nước ta”. Đó là lời mở đầu cuộc hội thảo của GS.Trần Hồng Quân – Chủ tịch Hiệp hội các trường Đại học, Cao đẳng Việt Nam. Trong thời gian 1 ngày diễn ra hội thảo, GS.Trần Hồng Quân đã có nhiều ý kiến nhắn nhủ tới các đại biểu đặc biệt là đại diện các trường trong công cuộc đổi mới căn bản toàn diện giáo dục hiện nay. Lý do tự chủ đại học chậm được xác lập Chủ tịch Hiệp hội các trường Đại học, Cao đẳng Việt Nam khẳng định: Sau hơn ba mươi năm đổi mới nhưng các lĩnh vực văn xã nói chung và giáo dục nói riêng vẫn còn mang đậm nét của cơ chế quan liêu bao cấp trong quản lý. Đó là lý do tự chủ đại học chậm được xác lập. Phải xóa bao cấp để tránh ỉ lại, phải xóa nghĩ thay làm thầy để tránh dựa dẫm, phải khắc phục sự ràng buộc để tránh tình trạng các trường phải “múa gậy trong bị”, phải xóa bỏ sự quản lý tập trung ngặt nghèo để các trường có động lực tự thân và có điều kiện khách quan để luôn luôn canh tân theo hướng tối ưu hoá để tồn tại và phát triển.
“Việc tự chủ về tài chính khiến cho không ít trường lo ngại nhưng rõ ràng, Chính phủ có quy định các bước đi trong một lộ trình hợp lý”, GS.Trần Hồng Quân nhấn mạnh. Đồng thời khi thực sự thực hiện tự chủ tài chính đầy đủ thì Nhà nước không phải hoàn toàn không đầu tư mà là sẽ đầu tư theo phương thức khác ví dụ như đặt hàng đào tạo, đặt hàng nghiên cứu khoa học, trong trường hợp đặc biệt có thể đầu tư xây dựng các phòng thí nghiệm chất lượng cao... Các trường tự lo nguồn thu là một trách nhiệm nặng nề, chỉ có thể thực hiện được bằng sự phấn đấu nâng cao chất lượng đào tạo và năng lực nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ. Về nguyên tắc, phải tiến tới các trường có quyền quyết định mức học phí để bù đủ chi phí đào tạo theo điều kiện bảo đảm chất lượng tương xứng của nhà trường (hiện nay tạm thời nhà nước còn quy định mức học phí tối đa cho các trường tự chủ và thay đổi dần theo lộ trình cần thiết để tránh sự đột ngột đối với người học). Với quyền tự chủ của mình các trường có thể huy động thêm vốn góp từ xã hội để cải thiện năng lực của mình và trong trường hợp đó thì các trường này sẽ trở thành một cơ sở đại học đa sở hữu chứ không còn thuần tuý là một trường công. Tự chủ đại học tạo ra sinh khí mới cho sự phát triển của đất nước GS.Trần Hồng Quân cho rằng: “Quá trình tự chủ giống như việc chúng ta cho đứa con ra ở riêng, ở riêng thì tự lập nhưng cũng có những khó khăn và thách thức. Với chủ trương tự chủ này, thái độ của các trường cũng khác nhau, hiện nay đã có 14 trường xin tự chủ, nhưng nhiều trường vẫn còn do dự”.
Khi bước vào tự chủ, một số trường hết sức hăng hái, hoan nghênh việc triển khai thực hiện tự chủ, coi như được giải phóng; có trường thì dè chừng cần có lộ trình hợp lý. Còn với các trường thiếu tự tin, ngần ngại việc xa rời bao cấp của ngân sách nhà nước, ngần ngại "bơi" trong bối cảnh tự lập thì không hoan nghênh tự chủ, coi đó như là sự buông tay thiếu trách nhiệm của nhà nước, họ mong muốn tiếp tục sống trong cơ chế quản lý tập trung như một sự núp bóng an nhàn. “Đương nhiên, bước đầu tự chủ sẽ có trường bứt phá vươn lên, chứ không có hiện trạng dàn hàng ngang đi lên, nhưng ngược lại cũng sẽ có trường buộc phải giải thể hoặc sáp nhập”, GS.Trần Hồng Quân nêu thực tế. Do đó, tự chủ phải có chủ trương hợp lý, khẩn trương kèm theo những chính sách hợp lý. Nếu không tự chủ không thể khởi sắc, hơn nữa giáo dục đại học trực tiếp liên quan đến phát triển đất nước. Khi nhìn vào tốc độ phát triển những năm gần đây, chúng ta cảm thấy lo lắng và cần phải khẩn trương tiến hành tự chủ đại học, để tạo ra sinh khí mới cho sự phát triển của đất nước. Phải có giảng buộc để tránh, quyết tâm quản lý tập trung để các trường tự lập, tránh áp đặt để các trường sáng tạo. Xây dựng các mô hình đại học tự chủ khác nhau Tự chủ đại học phải thực hiện đầy đủ trên 3 mặt: - Tự chủ thực hiện nhiệm vụ đào tạo, hoạt động khoa học có thể gọi tắt là tự chủ về học thuật. - Tự chủ về tài chính - Tự chủ về nhân lực. Phát biểu tổng kết hội thảo, GS.Trần Hồng Quân nhấn mạnh: “Tự chủ đại học là một chủ đề hết sức quan trọng, mang tính thời sự và đây cũng là một chủ đề khó đòi hỏi chúng ta cần phải chuẩn bị và mạnh dạn thực hiện".
Sau một ngày diễn ra hội thảo, hơn 300 đại biểu đã được nghe chỉ đạo của Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam, chỉ đạo thiết thực tháo gỡ nhiều suy nghĩ thắc mắc của các trường, của xã hội. Đồng thời, đại diện Bộ GD&ĐT, Thứ trưởng Bùi Văn Ga đã nêu lên kế hoạch của Bộ trong việc triển khai vấn đề tự chủ này. Cùng với 9 tham luận của các báo cáo viên đưa ra rất nhiều đề xuất, GS.Trần Hồng Quân mong muốn trước tiên cần tháo gỡ các quy định trong luật lao động, luật ngân sách và quy định về quản lý đào tạo, quản lý khoa học hiện hành, đặc biệt là các quy chế tổ chức hoạt động các loại cơ sở đào tạo đại học nhằm giải quyết các mối quan hệ: - Giữa trường và cơ quan quản lý mà cụ thể là Chính phủ, Nhà nước. - Giữa trường với người học. - Giữa trường và xã hội. - Và mối quan hệ tương quan trong nội bộ khi tiến hành tự chủ đại học. GS.Trần Hồng Quân cho rằng: Để tiến hành tự chủ đại học thuận lợi thì trước tiên cần tổ chức bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng cho cán bộ quản lý đại học để triển khai nhiệm vụ quan trọng này. Tiếp theo, cần tổ chức sự hợp tác quan trọng và đẩy mạnh nâng cao thi đua chất lượng trong quá trình tự chủ, đẩy mạnh quốc tế hóa giáo dục. Hiện nay sự kết hợp giữa Hiệp hội các trường Đại học, Cao đẳng Việt Nam, Hội đồng quốc gia giáo dục và Phát triển nhân lực và Bộ GD&ĐT tương đối mạnh mẽ với mong muốn phát triển giáo dục trong đó có vấn đề tự chủ đại học cần sớm triển khai nhằm tạo sinh khí mới cho các trường. Lý giải nguyên nhân kỳ vọng vào vấn đề tự chủ đại học, GS.Trần Hồng Quân cho rằng: “Khi tự chủ thì các trường sẽ sáng tạo, buộc phải sáng tạo để cảnh tỉnh, để phát triển. Sáng tạo để từng cá nhân thầy cô, cán bộ quản lý phấn đấu cho “chỗ đứng” của mình chứ không phải mặc nhiên đã là biên chế thì sẽ yên vị suốt đời, trường được thành lập thì mãi mãi tồn tại”. Mục tiêu phấn đấu, động lực tự thân của từng người, từng trường sẽ tạo ra động lực chung của nhà trường, tạo ra sinh khí phát triển mạnh mẽ trong toàn bộ hệ thống giáo dục. “Hiện nay mới có 14 trường tự nguyện đăng ký và được Chính phủ công nhận cho thí điểm tự chủ đại học. Sau hội thảo này, các trường đang thí điểm thì tiếp tục phấn đấu vươn lên hơn nữa qua những bài học đã trải qua, còn các trường đang chuẩn bị hoặc chưa chuẩn bị thì nên sớm sẵn sàng bắt tay vào thực hiện tự chủ theo lộ trình của Chính phủ đã quy định. Đây là một chủ trương lớn đầy triển vọng, nếu triển khai thành công rộng rãi thì nền đại học sẽ có bộ mặt mới năng động, thay đổi từng ngày để đáp ứng phát triển đất nước”, GS.Trần Hồng Quân kỳ vọng. Have a nice day!South China Morning Post ngày 1/10 dẫn nguồn tin Reuters cho biết, Tổng thống Philippines Rodrigo Duterte sẽ thăm chính thức Trung Quốc trong tháng này, động thái có thể "vẽ lại các liên minh ở Đông Nam Á". Ông Duterte có kế hoạch thăm Trung Quốc từ ngày 19 đến 21/10, hội đàm với cả ông Tập Cận Bình và ông Lý Khắc Cường. Nguồn tin ngoại giao và kinh doanh từ Manila cho biết, có khoảng 20 doanh nhân tháp tùng Tổng thống đi Trung Quốc.
Nhưng chìa khóa cho sự thành công của chuyến thăm sẽ nằm ở chỗ hai bên tiếp cận như thế nào đối với vấn đề Biển Đông, khi Bắc Kinh vẫn tiếp tục bác bỏ Phán quyết Trọng tài vụ kiện do Philippines khởi xướng. Một nguồn tin giấu tên có quan hệ với giới lãnh đạo Trung Quốc cho biết: "Duterte đã giữ thể diện cho chúng tôi, chúng tôi phải suy nghĩ lại về chính sách của mình. Chúng tôi phải đáp lại một cách lịch sự." Nếu Trung Quốc để ngư dân Philippines tiếp cận ngư trường đầm phá trong bãi cạn Scarborough thì đó sẽ là một chiến thắng lớn cho ông Duterte vốn đang được ủng hộ rộng rãi trong nước. Theo một cuộc khảo sát gần đây, bất chấp chỉ trích của truyền thông quốc tế và một số nước, tỉ lệ ủng hộ của Duterte trong nước cao kỷ lục, 92%. Zha Daojiong, một giáo sư quan hệ quốc tế từ Đại học Bắc Kinh cho biết, một thỏa thuận mới về quyền truy cập cho Philippines vào Scarborough có thể đạt được trong chuyến thăm. Tuy nhiên đó sẽ là thỏa thuận miệng chứ không phải văn bản chính thức. Ông Zha Daojiong giải thích, sở dĩ sẽ không có văn bản để Bắc Kinh tránh phải chính thức thừa nhận Phán quyết Trọng tài, trong đó tôn trọng quyền đánh cá của ngư dân cả hai nước ở Scarborough. Bắc Kinh vẫn chưa chính thức xác nhận chuyến thăm của Duterte, nhưng Bộ Ngoại giao Trung Quốc nói họ hoan nghênh chuyến thăm sớm diễn ra. Nguồn: http://ift.tt/2dk5VgA Have a nice day!LTS: Vừa qua, học sinh các trường Trung học Cơ sở thành phố Cao Lãnh (Đồng Tháp) tranh luận sôi nổi về việc sẽ chọn học trái buổi môn gì, theo giáo viên nào cho hợp lý, ... trước lệnh cho học sinh tự chọn giáo viên và môn học. Tuy nhiên, việc cho học sinh chủ động chọn giáo viên dạy buổi thứ hai trên trường ở thành phố Cao Lãnh (Đồng Tháp) đã dẫn đến đa phần các em thích những giáo viên dễ tính, cho điểm thoáng. Nhưng liệu đây có phải là sự lựa chọn khôn ngoan của học sinh? Cô giáo Phan Tuyết đã có bài viết thể hiện quan điểm của mình. Tòa soạn trân trọng gửi đến độc giả! Những giáo viên dễ dãi thường được các học sinh dễ dàng yêu quý hơn, nhưng thực tế những giáo viên này có phải là sự lựa chọn tốt nhất? Các trường Trung học Cơ sở trên địa bàn thành phố Cao Lãnh (Đồng Tháp) sẽ tổ chức học hai buổi/ ngày và cho học sinh chủ động chọn môn học, chọn giáo viên buổi học thứ hai (trái buổi).
Giải pháp này với mong muốn tạo động lực cho giáo viên nỗ lực trong giảng dạy để thu hút học sinh về với mình. Bên cạnh nhiều ý kiến cho rằng đây là nét mới, một cách làm hay để nâng cao chất lượng dạy học của giáo viên nhưng cũng có không ít sự băn khoăn: “Liệu rằng học sinh có chọn giáo viên dựa trên chất lượng giảng dạy hay vì những lý do khác?” Nếu giải pháp trên thực hiện cho sinh viên các bậc học Cao đẳng, Đại học thì chẳng có điều gì đáng bàn nhưng học sinh bậc Trung học Cơ sở đang ở độ tuổi từ 11 - 14 tuổi liệu có thích hợp chưa? Với độ tuổi này, các em thường bồng bột, bốc đồng yêu thương theo cảm tính có lợi cho mình kể cả cái lợi mang tính tiêu cực. Giáo viên các em yêu thích thường phải là người cho điểm rẻ, vui tính, dễ dãi trong khi dạy, khi thi, biết thương học sinh (không thuộc bài cho nợ lần khác, kiểm tra 15 phút báo trước, cho đề cương ngắn gọn… ). Với nhiều em, những điều này quan trọng hơn nhiều hơn việc thầy cô ấy dạy hiểu bài hay không? Thực tế đã được chứng minh, ở các trường học từ Trung học Cơ sở đến Trung học Phổ thông hiện nay, những giáo viên dễ dãi thường được các em yêu quý và chào đón một cách nhiệt tình. Cứ vào đầu mỗi năm học, danh sách giáo viên vào dạy từng lớp sau khi được thông báo, sẽ trở nên “nóng” trên các diễn đàn tranh luận của học sinh. Nào là “Lớp đó sướng thế? Thầy cô dễ không à. Ai như bên này toàn bà la sát…”. Thật ít khi nghe các em nói: “Cô (thầy) ấy dạy dễ hiểu, dạy hay…”, mà nhiều nhất vẫn là: “Thầy (cô) ấy dễ lắm…”. Mỗi kì thi đến, các em thường ngóng ra ngoài xem giáo viên nào vào lớp mình coi thi, nếu là giáo viên dễ, học sinh sẽ hò reo và cho hàng tràng vỗ tay không dứt. Ngặt nỗi, giáo viên nổi tiếng thường nghiêm khắc, thì ôi thôi chưa rời phòng thi các em đã loạn lên tố cáo với các bạn lớp bên: “Ông thầy (bà cô) gì mà hắc ám, coi thi gì mà khó quá, nhìn thấy cái mặt là đã thấy ghét rồi…”. Thường những học sinh học giỏi, chịu học lại rất thích giáo viên nghiêm túc, dạy ra dạy mà chơi ra chơi. Khi chọn thầy cô học, chắc chắn các em cũng sẽ đăng kí học với những thầy cô giáo như vậy nhưng số lượng học sinh học giỏi trong một lớp lại không có mấy còn học sinh trung bình trở xuống lại quá nhiều. Điểm số luôn rất quan trọng với các em nên lười học mà được điểm cao, em nào mà chẳng thích? Học sinh đã thế, còn giáo viên thì sao? Chắc chắn khi giáo viên không được học sinh chọn, bản thân giáo viên ấy cũng biết được vì sao mình không được học trò yêu mến? Nếu vì chuyên môn, vì phương pháp dạy học, chắc chắn những giáo viên này sẽ cố gắng học hỏi để nâng cao trình độ chuyên môn nhưng vì lý do khác như nghiêm khắc quá, cho điểm chặt, không bao giờ mớm bài… vì cuộc sống sẽ có không ít giáo viên tự thay đổi mình cho phù hợp với sở thích của các em. Đó là chưa nói đến việc cạnh tranh, nói xấu lẫn nhau giữa các giáo viên để tranh giành học sinh cho mình, cũng là điều khó tránh khỏi. Lúc này thì chuyện gì sẽ xảy ra? Chất lượng giảng dạy không được nâng lên có khi lại theo chiều hướng tiêu cực khác. Nâng cao chất lượng giảng dạy của giáo viên đâu nhất thiết phải để học sinh chọn học? Nhà trường cần quản lý chặt chẽ đề kiểm tra, đề thi, giao chất lượng đầu năm cho thầy cô quản lý và cuối năm nghiêm túc sát hạch lại các em có lẽ đang là phương pháp tối ưu nhất hiện nay. Have a nice day!South China Morning Post ngày 1/10 đưa tin, giáo sư Kim Nhất Nam cố vấn quốc phòng có tầm ảnh hưởng ở Trung Quốc lon Thiếu tướng, đã kêu gọi Bắc Kinh trả đũa chống lại lập trường của Singapore ở Biển Đông. Ông Nam muốn Bắc Kinh phải làm cho quốc đảo Sư tử phải "trả giá cho sự tổn hại nghiêm trọng lợi ích của Trung Quốc". Bình luận của ông Kim Nhất Nam như đổ thêm dầu vào lửa giữa những lời chỉ trích gay gắt của Trung Quốc về các phát biểu của Singapore bảo vệ Phán quyết Trọng tài. Kim Nhất Nam là Giám đốc Viện Nghiên cứu chiến lược Học viện Quốc phòng Trung Quốc. Cuối ngày thứ Năm đã cáo buộc Singapore "tích cực quốc tế hóa vấn đề Biển Đông" những năm gần đây khi trả lời phỏng vấn đài Tiếng nói Trung Quốc.
Viên tướng này cho rằng, Singapore đã khuyên Washington về vấn đề này, khuấy động cuộc xung đột giữa Mỹ và Trung Quốc: "Trung Quốc phải trả đũa Singapore là việc không thể tránh khỏi, và không chỉ trả đũa trên mặt trận dư luận. Với những gì Singapore đã làm cho đến nay, chúng ta có thể làm điều gì đó, có thể là trả đũa hay xử phạt. Chúng ta phải thể hiện sự bất mãn của mình." Kim Nhất Nam xác nhận với South China Morning Post, ông đã nói những điều này với đài Tiếng nói Trung Quốc. Kim Nhất Nam là thành phần của đoàn Trung Quốc tham dự Đối thoại Shangri-la hàng năm ở Singapore trong 2 năm qua. Chứng minh cho nhận định của mình, Kim Nhất Nam nói rằng Thủ tướng Singapore Lý Hiển Long đã dành toàn bộ bài phát biểu một giờ của ông tại Đối thoại Shangri-la năm ngoái để nói về Biển Đông: "Tên đầy đủ của Đối thoại Shangri-la là gì? Có phải là Hội nghị thượng đỉnh an ninh châu Á? Hiện tại có rất nhiều chủ đề về an ninh châu Á, bao gồm mất cân bằng trong phát triển, ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu, khủng bố, sắc tộc... Nhưng tất cả những vấn đề này đã bị bỏ qua và chỉ tập trung vào tranh chấp Biển Đông. Ai thiết lập một chủ đề chính như vậy?" Kim Nhất Nam cho rằng chính phủ Singapore phối hợp tổ chức diễn đàn này với Viện Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế, đã đóng vai trò quan trọng trong việc đưa Biển Đông vào chương trình nghị sự. Viên tướng này còn chỉ trích cả cố Thủ tướng Lý Quang Diệu rằng, chính ông Diệu đã khuyên Tổng thống Barack Obama khiến Washington thực hiện chiến lược "xoay trục" sang châu Á - Thái Bình Dương. Theo viên tướng này, cố Bắc Kinh đã không còn mấy tôn trọng cố Thủ tướng Lý Quang Diệu. Kim Nhất Nam nói: "Chúng tôi hiểu Singapore cần phải tồn tại giữa các nước lớn. Nhưng bây giờ Singapore không tìm kiếm sự cân bằng giữa các nước lớn, mà xúi các nước lớn đối đầu với nhau. Điều này không khác gì chơi với lửa." Trong cuộc phỏng vấn, Kim Nhất Nam chất vấn Singapore, tại sao cho Mỹ sử dụng căn cứ hải quân Changi, liệu Singapore có còn trung lập giữa Trung Quốc với Hoa Kỳ. Bằng cách mở cửa căn cứ hải quân này đón Mỹ, Singapore đã giúp Washington có thể thiết lập một sự hiện diện ở khu vực quan trọng đối với hoạt động nhập khẩu năng lượng của Trung Quốc. "Singapore tuyên bố họ là một quốc gia không liên kết, và căn cứ hải quân Changi là một cảng mở. Nhưng tại sao các bạn không mời hải quân Trung Quốc truy cập?" Kim Nhất Nam đặt câu hỏi. [1] Cá nhân người viết cho rằng, ông Kim Nhất Nam đưa ra những nhận định vô lý, trịch thượng kẻ cả trong quan hệ quốc tế để dọa dẫm Singapore là một điều khó có thể chấp nhận. Tất cả những phát biểu và hành động của Singapore cho đến nay chỉ nhằm bảo vệ tự do hàng hải hàng không, hòa bình, ổn định dựa trên trật tự và luật pháp quốc tế, trong đó có UNCLOS 1982 và Phán quyết Trọng tài vụ kiện Biển Đông. Singapore hoàn toàn trung lập, không đứng về phía quốc gia nào trong các bên tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông. Tư duy của viên tướng này là tư duy thời Chiến tranh Lạnh, khi thấy Trung Quốc vừa có chút thực lực sau khi được hưởng hơn 30 năm hòa bình sau Chiến tranh Thế giới II để phát triển, đã bắt đầu tìm cách dương vây. Phát biểu của ông Nam cũng cho thấy sự "cay cú" trước thái độ thượng tôn pháp luật của Singapore, quốc đảo này tuy bé nhưng không dễ khuất phục, cũng chẳng thể mua chuộc như một số nước khác để ngăn cản đưa căng thẳng, khủng hoảng Biển Đông vào các diễn đàn khu vực. Khi không ngăn được Singapore bảo vệ luật pháp quốc tế ở Biển Đông, thì một số học giả, kênh truyền thông Trung Quốc như ông Nam tỏ ra cay cú, bất mãn và đòi "trừng trị". Trong khi hiện nay đã là thời kỳ của "thế giới phẳng", các quốc gia, các nền kinh tế có mối quan hệ tương hỗ, phụ thuộc lẫn nhau chặt chẽ. Bất luận một "biện pháp trừng phạt" nào Bắc Kinh có thể đưa ra theo tham mưu của những cái đầu bốc hỏa như Kim Nhất Nam chỉ làm mất cơ hội của Trung Quốc, và cơ hội ấy dành cho các nước khác, trong đó có các nước ASEAN. Singapore tuy nhỏ về diện tích và quy mô dân số, nhưng vị thế, ảnh hưởng, lập trường và tư duy của họ không nhỏ. Singapore không phải con nợ của Trung Quốc, càng không phải đối tượng dễ bắt nạt. Câu hỏi của ông Nam, tại sao quốc đảo Sư tử mở cửa căn cứ quân sự Changi cho Mỹ mà lại không cho Trung Quốc truy cập thật là nực cười. Nó không chỉ phản ánh thái độ trịch thượng, mà còn cho thấy rõ nhận thức hời hợt của một người làm nghiên cứu về chiến lược. Về nguyên tắc, Singapore có thể tuyên bố Changi là một cảng mở, nhưng không có nghĩa ai thích vào thì vào. Đó là chủ quyền quốc gia, là an ninh chiến lược. Tại sao ông Nam không đặt câu hỏi ngược lại, mời các nước vào thăm quan căn cứ hải quân Du Lâm, Tam Á ở đảo Hải Nam, nơi đặt các tàu ngầm, tàu chiến chiến lược uy hiếp an ninh Biển Đông để giảm bớt lo ngại, căng thẳng trong khu vực? Người viết không tin các nhà lãnh đạo Trung Quốc sẽ nghe theo các ý kiến tham mưu kiểu này, bởi nó hủy hoại ghê gớm hình ảnh của Trung Quốc. Nhưng việc tuyên truyền của những người như ông Nam có thể kích động và nuôi dưỡng chủ nghĩa dân tộc cực đoan bên trong Trung Quốc. Tài liệu tham khảo: [1]http://ift.tt/2d1zvp3 Have a nice day!Thời báo Hoàn Cầu ngày 30/9 có bài phân tích lý giải tại sao các nước láng giềng Trung Quốc sẵn sàng mua sắm vũ khí của phương Tây. Một số học giả Trung Quốc nói với Thời báo Hoàn Cầu, nguyên nhân chủ yếu do bất ổn tại Trung Đông và lo ngại của các nước láng giềng với sự "trỗi dậy" của Trung Quốc. Tuần trước, Ấn Độ đã ký thỏa thuận với Pháp để mua 36 chiếc máy bay chiến đấu Rafale tổng trị giá 8,82 tỉ USD. Các máy bay này có thể mang đầu đạn hạt nhân chiến thuật, tăng khả năng răn đe hạt nhân cho Ấn Độ. Theo Viện Nghiên cứu Hòa bình quốc tế Stokhholm, Ấn Độ là nước nhập khẩu vũ khí lớn nhất thế giới. New Delhi đã chi khoảng 100 tỉ USD cho các hệ thống phòng thủ từ khi Thủ tướng Narendra Modi lên nắm quyền năm 2014. 10 quốc gia nhập khẩu vũ khí nhiều nhất trong giai đoạn 2011-2015 thì có 9 nước thuộc châu Á - Thái Bình Dương.
Tống Trung Bình, một nhà nghiên cứu từ Bắc Kinh nói với Thời báo Hoàn Cầu: Đa số các nước châu Á không có ngành công nghiệp quốc phòng toàn diện và phát triển. Tuy nhiên họ có nền tảng kinh tế tốt, nên họ sẵn sàng mua vũ khí từ các nước phát triển phương Tây thay vì bỏ thời gian, tiền của để tự nghiên cứu, phát triển. Ông Bình lưu ý, có hai nguyên nhân thúc đẩy các hợp đồng mua bán vũ khí ở châu Á. Đó là sự hỗn loạn tại Trung Đông và những lo ngại của các láng giềng Trung Quốc, xung quanh sự trỗi dậy của nước này. Ấn Độ sẽ triển khai những máy bay mua của Pháp tại khu vực biên giới tranh chấp với Pakistan và Trung Quốc. Ngoài Ấn Độ, các nước láng giềng khác của Trung Quốc nằm trong danh sách 10 nước nhập khẩu vũ khí nhiều nhất giai đoạn 2011 - 2015 có Việt Nam và Hàn Quốc. Ông Bình lý giải: "Do tranh chấp Biển Đông và sức mạnh ngày càng tăng của hải quân Trung Quốc, các nước như Việt Nam và Philippines đang rất lo ngại. Nhưng Hoa Kỳ đã không giúp Trung Quốc giải quyết vấn đề một cách hòa bình. Chính phủ và truyền thông Mỹ đang thổi phồng thuyết "mối uy hiếp từ Trung Quốc" nhằm thuyết phục các nước châu Á rằng, Trung Quốc có ý tấn công họ." Hua Liming, cựu Đại sứ Trung Quốc tại Iran và Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất (UAE) nói với Thời báo Hoàn Cầu, Mỹ và Nga không muốn giải quyết dứt điểm vấn đê Trung Đông còn để bán vũ khí. "Khi tôi còn là Đại sứ tại UAE, tôi thường thấy các nhà lãnh đạo từ Anh và Pháp thường xuyên đến rao bán vũ khí của họ. Cả Nga và Mỹ nay đang mệt mỏi vì cuộc chiến Syria đang diễn ra, nhưng không thể dừng lại." Ảnh hưởng từ các tập đoàn vũ khí của 2 nước là một nguyên nhân, nhưng điều đó cũng khiến Nga và Mỹ sẽ tiếp tục phải gánh chi phí chiến tranh ngày một gia tăng. [1] Cá nhân người viết cho rằng, đánh giá của ông Tống Trung Bình về các nước láng giềng mua vũ khí trang bị của các nước phương Tây có nguyên nhân là do Trung Quốc, là đã nhìn thẳng vào "một phần" sự thật. Tuy nhiên, ông phủ nhận mối đe dọa hoặc mối uy hiếp từ Trung Quốc và gán cho nó cái mũ "tuyên truyền" của Mỹ và phương Tây là không chính xác. Chính phủ hay truyền thông Mỹ không thể bịa đặt thông tin Trung Quốc kéo giàn khoan vào vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa Việt Nam năm 2014 hạ đặt bất hợp pháp và gây căng thẳng. Họ cũng không thể bịa đặt thông tin Trung Quốc xây dựng đảo nhân tạo và quân sự hóa bất hợp pháp ở Trường Sa, Khánh Hòa, Việt Nam. Mối đe dọa ấy là có thật. Tuy nhiên, phòng thủ và bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia là việc hết sức bình thường, nhất là trong một môi trường an ninh đầy biến động, bất ổn khó lường. Việt Nam hay các nước trong khu vực như Philippines có mua sắm vũ khí trang bị cũng chỉ để tự vệ, không nhằm đe dọa bất cứ ai. Nói theo Tiến sĩ Bonnie Glaser từ Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược quốc tế, tranh chấp Biển Đông thúc đẩy các hợp đồng mua bán vũ khí ở châu Á là sự thật. Nhưng các nước láng giềng Trung Quốc sẽ không thể theo kịp tốc độ hiện đại hóa quân sự của Trung Quốc cũng là một sự thật. Do đó theo bà: "Họ muốn có một lựa chọn khác hơn là cảm thấy rằng chỉ cần thích nghi với Trung Quốc, mà họ không đủ khả năng, ngay cả khi họ gia tăng mua sắm vũ khí. Không có quốc gia nào chung biên giới với Trung Quốc có thể đuổi kịp Trung Quốc (về chi tiêu quân sự). Hãy nhìn vào chi tiêu quân sự của Bắc Kinh. Vì vậy các nước (láng giềng Trung Quốc) sẽ phải tìm thêm những cách thức sáng tạo. Họ chắc chắn có thể nâng cao khả năng của mình." [2] Theo người viết, hợp tác giữa các nước láng giềng Trung Quốc với nhau, với ASEAN và các nước có lợi ích ở Biển Đông để bảo vệ hòa bình, ổn định và luật pháp quốc tế ở Biển Đông cũng là một lựa chọn. Vấn đề thứ hai bài báo này nêu ra, dường như là chỉ có Mỹ và Nga thao túng thị trường vũ khí toàn cầu, nguyên nhân của các cuộc xung đột nóng bỏng tại Trung Đông mà lờ đi chính Trung Quốc cũng đang muốn tham gia và tăng thị phần. Bởi cũng theo Viện Nghiên cứu Hòa bình quốc tế Stockholm được VOA trích dẫn, Siemon Wezeman, một nhà nghiên cứu cao cấp của trung tâm này đánh giá: Trung Quốc đang tích cực thúc đẩy xuất khẩu vũ khí. Rất nhiều mặt hàng vũ khí Trung Quốc đã có mặt tại các nước có quan hệ tốt với Bắc Kinh, ví dụ như Pakistan, Bangladesh, Myanmar. Trung Quốc hiện là nước xuất khẩu vũ khí lớn thứ 3 thế giới sau Mỹ và Nga. Bắc Kinh chiếm gần 6% tổng số vũ khí xuất khẩu toàn cầu giai đoạn 2011 - 2015. [2] Business Standard ngày 30/9 cho biết, chỉ 5 năm trước Mỹ và Trung Quốc chia sẻ thị phần tương đương trong lượng vũ khí nhập khẩu của Pakistan, lần lượt là 39% và 38%. Nhưng hiện tại, Trung Quốc đang chiếm 63% vũ khí nhập khẩu của Pakistan và Hoa Kỳ giảm xuống còn 19%. Ông Tống Trung Bình phàn nàn Mỹ "không giúp Trung Quốc", ngược lại còn "thổi phồng uy hiếp từ Trung Quốc". Chắc hẳn ông cũng biết tháng trước, Pakistan xác nhận hợp đồng mua 8 tàu ngầm thông thường của Trung Quốc với chi phí từ 4 đến 5 tỉ USD. Điều đáng nói là những tàu ngầm này có thể khởi động tên lửa hành trình mang đầu đạn hạt nhân, đánh trả các tên lửa đạn đạo từ tàu ngầm Ấn Độ. [3] Chưa kể đến Thái Lan, Campuchia cũng đang trở thành khách hàng của vũ khí Trung Quốc. Tài liệu tham khảo: [1]http://ift.tt/2dJyh64 [2]http://ift.tt/2dg4wqU [3]http://ift.tt/2dbFBsx Have a nice day!Sáng nay (30/9), Hiệp hội các trường Đại học, Cao đẳng Việt Nam đã tổ chức hội thảo “Tự chủ đại học và trách nhiệm xã hội” với sự tham dự của hàng trăm trường đại học trên cả nước. Mở đầu hội thảo, đại diện của các trường và nhiều chuyên gia giáo dục tỏ ra bất ngờ với sự xuất hiện của Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam, và ông phát biểu như một tham luận về vấn đề này. Phó Thủ tướng bày tỏ: “Tôi rất hoan nghênh và cảm ơn Hiệp hội các trường Đại học, Cao đẳng Việt Nam đã dành rất nhiều tâm sức xunh quanh câu chuyện đổi mới giáo dục và đào tạo đặc biệt là giáo dục đại học cụ thể là việc tổ chức một cuộc hội thảo như ngày hôm nay. Thú thực, tôi hơi bất ngờ. Tôi chuẩn bị đến đây là ngồi bàn tròn tâm sự với nhau, nhưng đến đây thấy rất đông đủ. Tôi rất mừng!”. Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam nhận định, đổi mới là một quá trình liên tục. Việt Nam thường xuyên đổi mới giáo dục, nhưng vì xét thấy xu thế thế giới, thực trạng giáo dục trong nước cần phải đổi mới căn bản và toàn diện nên Trung ương có Nghị quyết 29. Khi điểm lại quá trình xây dựng nghị quyết ấy, điểm lại thấy nền giáo dục nước nhà có rất nhiều kết quả, trong đó giáo dục phổ thông có nhiều điểm đáng mừng hơn. Phó Thủ tướng chia sẻ: “Có rất nhiều chỉ số để nói rằng giáo dục đại học “có vấn đề”, ví dụ số lượng cử nhân, thạc sĩ ra trường không có việc làm. Đương nhiên điều này còn tùy thuộc vào tình hình kinh tế xã hội, nhưng rõ ràng cũng có vấn đề về chất lượng đào tạo. Có nhiều nhà kinh tế nói với tôi rằng nếu ta có nhiều thật nhiều cử nhân ra cử nhân, thạc sĩ ra thạc sĩ, tiến sĩ ra tiến sĩ thì đó là nguồn lực thu hút mạnh mẽ hơn”. Phó Thủ tướng nêu ra một thí dụ mà ông nói rằng rất buồn, đó là điểm lại công bố quốc tế Việt Nam rất thấp. Cụ thể, trong số khoảng 10.000 tạp chí ISI thì Việt Nam không có cái nào; trong số khoảng 20.000 tạp chí Scorpus thì Việt Nam có 3 cái, nhưng không có cái nào của trường đại học cả mà toàn của các viện nghiên cứu. “Gần đây, ta nói nhiều đến khoa học công nghệ liên quan nhiều mảng của mình, đất nước phát triển bền vững thì phát triển khoa học công nghệ nhằm để đổi mới sáng tạo quốc gia là một tam giác đều, xoay chiều nào cũng được. Một đỉnh là đại học, một đỉnh là nghiên cứu, một đỉnh là Nhà nước và trung tâm là doanh nghiệp. Còn ở nước ta theo nhiều chuyên gia quốc gia đánh giá, mô hình của Việt Nam là tam giác cân, đáy nhỏ nên không xoay nhiều chiều. Đỉnh cao nhất là Nhà nước, 2 đỉnh dưới cùng là doanh nghiệp và Đại học, ở giữa trung tâm là viện nghiên cứu. Chính vì vậy, Đại học không tham gia vào nghiên cứu công tác nghiên cứu khoa học nhiều như các nước tiên tiến. Hai điểm này cho thấy chúng ta cần đổi mới giáo dục căn bản toàn diện và đại học cần vừa căn bản toàn diện vừa mạnh mẽ bởi tiếp cận đầu ra của thị trường lao động thì đại học gần hơn”, Phó Thủ tướng chia sẻ.
Và để đổi mới có hiệu quả phù hợp với xu thế tất yếu của thế giới thì các trường đại học phải quyết tâm tự chủ. Theo nhiều nhà phân tích, môi trường đại học đòi hỏi sự khai phóng, sáng tạo và những người tham gia quản trị đại học là người có trình độ, có hiểu biết, mặt bằng hiểu biết tương đối cao và đồng nhất. Đặc biệt, tự chủ gắn với giải trình xã hội. Phó Thủ tướng chia sẻ một câu chuyện hết sức thú vị: “Có lần, tôi gặp một chuyên gia, anh ấy hỏi tôi: Anh Đam, anh biết đấy, Havard là trường tư, nhưng anh biết trường đó là của ai không? Tôi trả lời: Tôi nghĩ là của nước Mỹ! Chuyên gia này tiếp lời: Cũng đúng, nhưng nếu nói với tư cách bạn bè, theo tôi đó là trường của nhân loại”. Các trường tự chủ, nhưng nhà nước tiếp tục quan tâm, hỗ trợ Trên thực tế thì vấn đề tự chủ đại học ở Việt Nam đã được đặt ra từ lâu và cũng đã thí điểm cách đây 10 năm áp dụng đối với Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, rất đáng tiếc là sau đó vấn đề này lại không được thúc đẩy thêm, không đạt được những mong muốn đề ra.
Nguyên nhân chính dẫn tới vấn đề tự chủ chậm tiến triển là do hầu hết đều hiểu lệch theo hướng tài chính, lo lắng rằng nhà nước sẽ không cấp tiền nữa thì không có tiền chi thường xuyên. Chia sẻ tại hội thảo, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam đã giúp cho nhiều trường đại học thở phào nhẹ nhõm với những luồng suy nghĩ thoáng đạt hơn, hiểu rằng tự chủ không chỉ đơn thuần là về tài chính. Theo Phó Thủ tướng, có ba vấn đề đáng chú ý: Thứ nhất, tự chủ chuyên môn, dạy học và nghiên cứu liên quan đến quản lý nhà nước. Trước đây, ta có nhiều việc “cầm tay chỉ việc”, nhưng giờ đây đã tháo gỡ được nhiều, những trường gần đây cho tự chủ thậm chí được nhiều quyền hơn. Thứ hai, tự chủ bộ máy tổ chức, nhân sự, vừa rồi Bộ Nội vụ có quyết định tháo gỡ căn bản liên quan đổi mới về sự nghiệp công. Trong sự nghiệp giáo dục, số biên chế hiện nay tự có, muốn tuyển thêm bao nhiêu là toàn quyền tự làm chứ không bị giàng buộc phải xin đề án xin nhân lực. Thứ ba, về tự chủ tài chính. Cách đây 10 năm đặt ra câu hỏi: Tự chủ thật sự là như thế nào? Ở những quốc gia như Đức, Pháp có tự chủ đại học có thậm chí rất nhiều nhưng nhà nước vẫn cấp kinh phí. Có nghĩa là tự chủ không có nghĩa là Nhà nước không cấp kinh phí nữa. Vậy tự chủ là như thế nào? Ta hãy hình dung 14 trường tự chủ hiện nay, nếu nhìn tinh sẽ thấy các trường được lợi quá vì được nhiều quyền mà vẫn được Nhà nước đầu tư. “Các đồng chí hãy bỏ ý nghĩ trong đầu nỗi sợ là nếu tự chủ thì không được nhà nước đầu tư nữa. Tôi khẳng định tự chủ không phải là Nhà nước không đầu tư chỉ có điều thay đổi cách đầu tư”, Phó Thủ tướng phát biểu.
Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam nhấn mạnh, việc đăng ký tự chủ không chỉ mang lại cho mình mà còn giúp cho rào cản giữa công lập và tư thục được tháo gỡ. Thay vì Nhà nước cấp tiền lương giáo viên, khi là viên chức yên tâm vị trí đó thì giờ dùng tiền ấy để cấp học bổng cho học sinh thuộc các đối tượng chính sách, gia đình khó khăc; hoặc nhà nước tiếp tục đầu tư tăng nguồn cho nghiên cứu khoa học, chứ Nhà nước không cắt ngay nguồn đầu tư cho khối đại học. Phó Thủ tướng cũng cho biết, Chính phủ đang soạn Dự thảo Nghị định theo hướng về cơ bản các trường đại học tự chủ tạo toàn quyền nhưng thay đổi mô hình quản trị, cơ quan chủ quản giảm sự can thiệp hành chính bằng việc đầu tiên là bổ nhiệm hội đồng tường lâm thời (6 tháng,1 năm). Trong thời gian đó, hội đồng trường đó bầu chọn Hiệu trưởng, hiệu phó, cơ quan lãnh đạo trong trường. Ngoài ra, trước đây, quy định người có học hàm học vị 65 tuổi trở lên không được quản lý chỉ được làm chuyên môn, nhưng nếu tự chủ không nên can thiệp mà chỉ can thiệp tuổi. Kết thúc bài “tham luận” sâu sắc, Phó Thủ tướng nêu ra một thí dụ so sánh tạo thêm niềm tin cho các trường mạnh dạn tự chủ: “Chúng ta đang rất kiên trì quyết liệt thực hiện đường lối đổi mới, và một trong những mũi ấy là đổi mới mũi doanh nghiệp Nhà nước. Bước khó khăn nhất ban đầu mà chúng ta gặp phải là phân biệt chức năng quản lý Nhà nước với chức năng sở hữu doanh nghiệp và việc bỏ chủ quản trong doanh nghiệp vô cùng gian nan, vất vả. Bởi khi đó các Bộ, các ủy ban, các Ban giám đốc không đồng thuận nhưng Nhà nước kiên trì thuyết phục và kết quả là đổi mới được hệ thống doanh nghiệp Nhà nước như hiện nay. Đổi mới đại học còn khó khăn hơn đổi mới doanh nghiệp bởi nó liên quan đến con người cho nên trong thời gian tới chúng ta cần có trách nhiệm hơn, khấu triệt và quyết tâm cao hơn”. Have a nice day!South China Monring Post ngày 30/9 đưa tin, một số nhà quan sát Trung Quốc nhận định, dường như Nhà Trắng muốn ổn định quan hệ với Trung Nam Hải trong những tháng cuối cùng của chính quyền Obama. Việc Hội đồng An ninh Quốc gia Hoa Kỳ can thiệp, ra lệnh cho các quan chức Lầu Năm Góc không nhắc đến "cạnh tranh chiến lược Mỹ - Trung" hay những điều tương tự làm nóng quan hệ hai nước, là dấu hiệu cho thấy Washington muốn giảm bớt căng thẳng với Bắc Kinh ở Biển Đông. Navy Times, ấn phẩm hàng tuần dành cho quân nhân Mỹ và gia đình họ, ngày 26/9 đã dẫn 4 nguồn tin độc lập nói về điều này. Nhà Trắng lệnh cho giới chức Lầu Năm Góc hạn chế bình luận gây căng thẳng quan hệ với Trung Quốc.
Su Hao, một giáo sư về quan hệ quốc tế Đại học Ngoại giao Trung Quốc nhận định, những phát biểu của Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Ash Carter và các thành viên Lầu Năm Góc thường gây ấn tượng, Mỹ và Trung Quốc đang cạnh tranh, đối đầu. Quan hệ Trung - Mỹ dường như đã bị bao phủ bởi vấn đề Biển Đông, hoặc đối đầu quân sự, mà không lột tả toàn diện quan hệ song phương, ông Su Hao bình luận. Tổng thống Mỹ Barack Obama không muốn để lại di sản quan hệ Trung - Mỹ hỗn loạn cho người kế nhiệm. Vì vậy Nhà Trắng phải cẩn thận xem xét làm thế nào để ổn định quan hệ. Lý Kiệt, một chuyên gia về hải quân từ Bắc Kinh nói với South China Morning Post, chỉ thị của Hội đồng An ninh Quốc gia Mỹ cho thấy Nhà Trắng đang lo lắng, thái độ của Lầu Năm Góc có thể phản tác dụng đối với quan hệ Trung - Mỹ. Một cố vấn chính thức của chính phủ Trung Quốc, chuyên gia quan hệ Trung - Mỹ giấu tên cho biết, Nhà Trắng và Trung Nam Hải đã đạt được một thỏa thuận không kích hoạt xung đột trực tiếp ở Biển Đông. Ví dụ ông cho biết là, Mỹ rút tàu sân bay USS John C. Stennis về Hawaii ngày 5/7, một tuần trước khi PCA công bố Phán quyết Trọng tài vụ kiện Biển Đông giữa Philippines và Trung Quốc. Trung Quốc cũng đã cam kết một số thỏa hiệp, không chắc họ sẽ xây dựng đảo nhân tạo ở Scarborough hoặc tuyên bố một vùng nhận dạng phòng không ở Biển Đông. Cả hai bên đều không muốn leo thang căng thẳng, muốn đàm phán thông qua các quan chức dân sự, giải quyết vấn đề Biển Đông bằng con đường ngoại giao. [1] Cá nhân người viết cho rằng, thông tin từ cố vấn Trung Quốc nói với South China Morning Post về một thỏa hiệp giữa ông Obama với ông Tập Cận Bình xung quanh vấn đề Biển Đông rất đáng lưu tâm. Nó phù hợp với những gì đã diễn ra ngoài thực địa, đồng thời cũng phù hợp với một báo cáo của Reuters, rằng các quan chức Mỹ như Bộ trưởng Quốc phòng, Ngoại trưởng đã điện đàm trực tiếp với lãnh đạo một số nước trước hôm 12/7 lưu ý, đừng làm mất mặt Trung Quốc. Tuy nhiên với những gì đang diễn ra trong cuộc đua vào Nhà Trắng và thái độ công khai ủng hộ bà Hillary Clinton của ông Obama, có thể thấy: Không loại trừ khả năng ông chủ Nhà Trắng cần sự hỗ trợ của Trung Nam Hải, để bà cựu Ngoại trưởng có thể kế nhiệm mình một cách thuận lợi, trước sự xuất hiện đầy bất ngờ và khó dự đoán của Donald Trump. Như vậy, người viết cho rằng có thể lý giải được những quyết sách đối ngoại của Tổng thống Philippines Rodrigo Duterte là có căn cứ. Ông Rodrigo Duterte không lịch thiệp như ông Obama, cũng không biết hoặc không muốn xây dựng hình ảnh như ông chủ Nhà Trắng. Đó là một thực tế rõ ràng. Nhưng người viết thiết nghĩ rằng, Rodrigo Duterte hiểu đâu là lợi ích quốc gia, dân tộc Philippines hơn là Barack Obama. Cũng như thế, phần đông dư luận truyền thông quốc tế và Việt Nam không ưa Donald Trump, nhưng nếu người Mỹ có chọn Trump làm Tổng thống thứ 45 thì là do họ có cái lý của họ. Tài liệu tham khảo: http://ift.tt/2dCHsCh Have a nice day! |
AuthorWrite something about yourself. No need to be fancy, just an overview. Archives
June 2017
Categories |