Đài CNBC ngày 31/5 dẫn lời nhà phân tích chiến lược Rodger Baker từ Công ty khảo sát phân tích tình báo - địa chính trị Stratfor bình luận: Việt Nam có thể trở thành một đối tác quan trọng trong dài hạn đối với Washington để trung hòa ảnh hưởng của Trung Quốc ở Biển Đông và Đông Nam Á. Nằm ở vị trí đặc biệt tại Đông Nam Á, Việt Nam có lập trường vững chắc chống lại các hoạt động bành trướng trên Biển Đông. [1] Hành động bành trướng của Trung Quốc trên Biển Đông cũng đã khiến Hoa Kỳ khó chịu. Ngay sau khi nhậm chức, chính quyền Tổng thống Donald Trump đã tuyên bố: "Đó sẽ là vấn đề nếu những hòn đảo (nhân tạo) trên thực tế nằm ở vùng biển quốc tế, không phải là một phần của Trung Quốc, thì chúng tôi sẽ đảm bảo rằng không để bất kỳ quốc gia nào thâu tóm các vùng lãnh thổ quốc tế.". [2] Biển Đông đã tạm thời lắng xuống khi Nhà Trắng tìm kiếm sự giúp đỡ từ Trung Nam Hải trong việc gây sức ép với Triều Tiên để họ bỏ chương trình phát triển tên lửa đạn đạo, vũ khí hạt nhân. Nhưng vấn đề Biển Đông đã quay trở lại chương trình nghị sự của Mỹ vào cuối tháng Năm vừa qua. Hải quân Hoa Kỳ đã phái khu trục hạm mang tên lửa USS Dewey tuần tra tự do hàng hải bên trong 12 hải lý xung quanh bãi Vành Khăn, Trường Sa (Khánh Hòa, Việt Nam), nơi Trung Quốc chiếm đóng, đảo hóa và quân sự hóa bất hợp pháp. Jonathan Stromseth, thành viên cao cấp tại Viện Brookings nói với CNBC: "Chuyến thăm Washington của Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc sẽ tạo thêm động lực cho quan hệ Mỹ - Việt đang chuyển động theo hướng tăng cường hợp tác chiến lược.
Trong tuần qua, Hoa Kỳ đã bàn giao cho Cảnh sát biển Việt Nam một số tàu tuần tra. Hải quân hai nước đã có những chuyến thăm viếng hữu nghị lẫn nhau, Mỹ đã dỡ bỏ lệnh cấm vận xuất khẩu vũ khí cho Việt Nam.". [1] Việt - Mỹ có chung lợi ích trong việc bảo vệ luật pháp quốc tế, tự do và an ninh hàng hải, hàng không ở Biển Đông Harry J. Kazianis - Giám đốc nghiên cứu quốc phòng tại Trung tâm National Interest được thành lập bởi cựu Tổng thống Mỹ Richard M. Nixon - ngày 31/5 có bài bình luận trên tạp chí The Week [3], nhận định về Biển Đông và khả năng hợp tác an ninh Mỹ - Việt: Ít nhất cho đến năm ngoái, Biển Đông là vấn đề chiến lược quan trọng nhất của Mỹ trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Chắc chắn Biển Đông nằm trong tốp 5 điểm nóng tiềm ẩn trên toàn cầu bởi nguyên nhân quá rõ: Trung Quốc nỗ lực phô diễn sức mạnh nhằm tìm cách thống trị một trong những tuyến hàng hải huyết mạch trọng yếu nhất của thế giới. Sau khi Bắc Kinh bị thua hoàn toàn trong vụ kiện trọng tài Biển Đông do Philippines khởi xướng với Phán quyết hôm 12/7/2016, Biển Đông đã phải đối mặt với thách thức chưa từng có kể từ thời Chiến tranh Lạnh. Một nhân viên cao cấp của Lầu Năm Góc đã nói với Harry J. Kazianis tháng Bảy năm ngoái rằng, nếu Chiến tranh Thế giới III nổ ra trong thập kỷ tới, thì phát súng đầu tiên sẽ nổ trên Biển Đông. Tuy nhiên vì một loạt yêu tố, Biển Đông đã dần bị gạt ra ngoài danh sách các vấn đề đối ngoại ưu tiên của Washington: Trung Quốc phản ứng bình tĩnh với Phán quyết Trọng tài, Tổng thống Philippines Rodrigo Duterte cố gắng cải thiện quan hệ với Bắc Kinh và quá trình chuyển đổi chính quyền ở Nhà Trắng... Harry J. Kazianis cho rằng, đó là một sai lầm lớn. Trong khi ưu tiên hàng đầu của Mỹ ở châu Á là Bắc Triều Tiên, Trung Quốc đang từng bước chiếm ưu thế ở Biển Đông, một cách chậm nhưng chắc. Bắc Kinh sẽ sớm triển khai vĩnh viễn các tàu ngầm, máy bay ném bom và chiến đấu cơ trên các đảo nhân tạo (bất hợp pháp) ở Biển Đông. Khi vấn đề Biển Đông quay trở lại "màn hình ra đa" của chính quyền Tổng thống Donald Trump, hoạt động tuần tra tự do hàng hải của chính quyền Tổng thống Barack Obama được tái khởi động. Nhưng đây có thể là một tính toán sai lầm lớn mà Trung Quốc sẽ tận dụng.
Bởi về mặt chiến lược, các hoạt động này không có tác dụng đẩy lùi hay làm chậm bước tiến thống trị Biển Đông mà Bắc Kinh đang thúc đẩy, thậm chí nó càng làm tình hình trở nên tồi tệ hơn. Một bản tin trên CNN hôm 30/5 đã xác nhận những gì mà các chuyên gia như Harry J. Kazianis luôn luôn lo sợ: Trung Quốc đang từng bước nắm quyền kiểm soát Biển Đông từ đáy biển. Bắc Kinh đang nỗ lực xây dựng một mạng lưới ra đa dưới đáy biển để làm giảm khả năng tàng hình của tàu ngầm Mỹ và các nước khác hoạt động ở Biển Đông. [4] Vì vậy, nếu Washington chỉ đơn giản cho tàu chiến chạy quanh Biển Đông, thì Bắc Kinh sẽ tiếp tục lấn tới bằng cách cài đặt các thiết bị quân sự ngày càng tiến tiến trên mặt biển, và bây giờ là dưới lòng Biển Đông. Đảo nhân tạo và các thiết bị Trung Quốc cài cắm ở Biển Đông là vĩnh viễn, trong khi hoạt động tuần tra tự do hàng hải của Hoa Kỳ chỉ là tạm thời. Harry J. Kazianis cho rằng, tin vui là chính quyền Tổng thống Donald Trump có thêm các lựa chọn và cơ hội để đảo ngược tình hình, nhờ chuyến thăm ngoại giao kịp thời đến Washington DC tuần này của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc. (Tác giả Harry J. Kazianis nhầm thành chuyến thăm của Chủ tịch nước Trần Đại Quang - người viết xin đính chính). Việt Nam là một trong những nước có yêu sách (chủ quyền đối với 2 quần đảo Hoàng Sa - Trường Sa, và vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa hợp pháp) trên Biển Đông. Nhiều năm qua, Việt Nam tìm kiếm sự hỗ trợ từ Hoa Kỳ trong vấn đề Biển Đông. Ngay cả khi Tổng thống Donald Trump chỉ xem Biển Đông là một vấn đề quan trọng và kêu gọi các nhà lãnh đạo Việt Nam cho phép tàu hải quân Mỹ thường xuyên thăm các cảng của Việt Nam, đó cũng sẽ là một minh chứng Mỹ không lùi bước trước áp lực từ Trung Quốc. Từ đây chính phủ Tổng thống Donald Trump có rất nhiều điều có thể làm. Rõ ràng nhất là nội các của ông cần xây dựng một chiến lược toàn diện để đảm bảo Trung Quốc không thể biến Biển Đông thành ao tù của họ, điều mà chính quyền Tổng thống Barack Obama chưa làm được. Nó có thể bao gồm việc buộc Bắc Kinh cam kết không đảo hóa bãi cạn Scarborough và biến cấu trúc này thành một tiền đồn quân sự của Bắc Kinh. Ngoài ra, nếu Bắc Kinh tiếp tục thúc đẩy xu thế thay đổi hiện trạng, Mỹ nên nhắc nhở họ bằng các lựa chọn có sức nặng, ví như bán cho Đài Loan một gói vũ khí lớn. Rõ ràng Washington có nhiều lựa chọn khi nói đến việc kiểm soát và cân bằng tuyên bố thái quá của Trung Quốc ở Biển Đông. Nhưng chắc chắn rằng phương án cho tàu chiến chạy lòng vòng quanh đảo nhân tạo không nên là một trong số các lựa chọn ấy. [3] Cá nhân người viết cho rằng, bình luận của nhà nghiên cứu Harry J. Kazianis rất đáng lưu tâm và tìm hiểu kỹ. Việt Nam và Hoa Kỳ có lợi ích chung chiến lược, lâu dài trong việc bảo vệ luật pháp quốc tế, hòa bình, ổn định an ninh và tự do hàng hải - hàng không trên Biển Đông. Những nhắc nhở của ông Kazianis về các bước tiến bành trướng "chậm nhưng chắc" của Trung Quốc trên Biển Đông rất có cơ sở. Đặc biệt là động thái lắp đặt hệ thống quan trắc thu thập tin tức tình báo đáy biển với âm mưu vô hiệu hóa hoạt động tàu ngầm của đối phương trên Biển Đông. Đây có lẽ là điều cả Hoa Kỳ và Việt Nam nên tìm hiểu kỹ và phối hợp nghiên cứu giải pháp. Muốn đối phó hiệu quả với âm mưu này, trước hết các lực lượng chuyên trách hai nước Hoa Kỳ, Việt Nam cần có sự hợp tác, phối hợp chặt chẽ về an ninh trên Biển Đông, đánh giá đúng tình hình và nghiên cứu, tìm tòi giải pháp phù hợp. Việc cần làm trước hết và cũng quan trọng nhất để đảm bảo tính hiệu quả, đó chính là đánh giá chính xác tính nguy hiểm lâu dài trong âm mưu, ý đồ, hoạt động của Trung Quốc trên Biển Đông cũng như tác động, ảnh hưởng của nó. Việt Nam cần một chiến lược tổng thể về Biển Đông, nằm trong chiến lược xây dựng và phát triển đất nước Giáo sư, Tiến sĩ Rajaram Panda từ Hội đồng Quan hệ văn hóa Ấn Độ ngày 31/5 có bài phân tích trên Eurasia Reviews về tầm quan trọng của giải quyết tranh chấp Biển Đông đối với hòa bình thế giới. [5] Bình luận về lập trường của Việt Nam trong vấn đề Biển Đông, Giáo sư Rajaram Panda cho rằng: "Việt Nam không muốn chiến tranh với Trung Quốc, đồng thời ủng hộ việc tìm kiếm giải pháp giải quyết tranh chấp Biển Đông dựa trên luật pháp quốc tế. Tuy nhiên Việt Nam sẽ không ngần ngại để đẩy lùi mọi hành động đơn phương xâm phạm các lợi ích quốc gia (chính đáng và hợp pháp) của mình. Về mặt lịch sử, Việt Nam đã từng đánh bại thực dân Pháp và sau đó là Mỹ, nhưng không để cái bóng của lịch sử chiến tranh che mờ mong muốn hòa bình và phát triển. Đây là lý do chính quyền Tổng thống Barack Obama đã quyết định dỡ bỏ lệnh cấm vận vũ khí sát thương với Việt Nam sau một thời gian dài. Việt Nam tìm cách chống lại việc Bắc Kinh thay đổi hiện trạng ở Biển Đông, phản đối Trung Quốc xây dựng đảo nhân tạo bất hợp pháp ở Ga Ven (và 6 cấu trúc khác Trung Quốc chiếm đóng trái phép) ở quần đảo Trường Sa. Có điều cho đến nay, chưa có bất kỳ quốc gia láng giềng nào của Trung Quốc thành công trong việc thuyết phục Bắc Kinh thay đổi mục tiêu (bành trướng ở Biển Đông). Điều này khiến Việt Nam không có lựa chọn nào khác ngoài việc tăng cường khả năng phòng thủ của mình bằng cách củng cố quan hệ quốc phòng với các nước thân thiện như Ấn Độ và Nhật Bản. Trong khi Việt Nam vẫn tiếp tục tìm kiếm một giải pháp cho các tranh chấp, phù hợp với luật pháp quốc tế và Hiến chương Liên Hợp Quốc, Việt Nam cũng tìm cách phát triển, xây dựng các quan hệ với các nước khác, nhưng không phải để đối đầu. Việt Nam đã phải chịu đựng rất nhiều hệ lụy từ các cuộc tranh giành (ảnh hưởng giữa các siêu cường) từ thời Chiến tranh Lạnh và không muốn lặp lại những bi kịch. Đó là điều hoàn toàn dễ hiểu.". [5] Người viết cho rằng Giáo sư Rajaram Panda nhận xét khá sắc sảo về chiến lược của Việt Nam trên Biển Đông trên tinh thần thấu hiểu và chia sẻ. Những tiếng nói như vậy quả thực rất đáng quý, vì tính khách quan cũng như nghiêm túc của một nhà nghiên cứu quốc tế đối với Việt Nam. Điều này đặc biệt có ý nghĩa trong bối cảnh Trung Quốc có hẳn một chiến lược tuyên truyền rầm rộ, bài bản, lâu dài nhằm xây dựng những nhận thức mới cho dư luận quốc tế để phục vụ ý đồ không trong sáng của họ. Tuy nhiên, cho dù củng cố năng lực phòng thủ và tích cực tìm kiếm các giải pháp chính trị - ngoại giao trên cơ sở luật pháp quốc tế là mấu chốt trong chiến lược của Việt Nam ở Biển Đông, người viết cho rằng bấy nhiêu thôi chưa đủ. Quan trọng hơn là chiến lược ấy phải được nghiên cứu bài bản và lồng trong chiến lược phát triển đất nước, cả về kinh tế -văn hóa - chính trị - giáo dục chứ không chỉ có quân sự và đối ngoại. Ví dụ về kinh tế, Việt Nam nằm ở vị trí quan trọng trong chiến lược Con đường tơ lụa mới trên biển, một nhánh của sáng kiến "Một vành đai, một con đường" mà Trung Quốc đang ra sức thúc đẩy, triển khai rầm rộ. Việc tìm hiểu thấu đáo chiến lược này của Trung Quốc để có thể mang lại những lợi ích kinh tế thiết thực. Nhưng đồng thời nó cũng giúp chúng ta không bị đối phương cài cắm hay đánh đổi những lợi ích về an ninh hay quyền và lợi ích hợp pháp của Việt Nam trên Biển Đông. Một "hàng rào miễn dịch" cần được xây dựng và củng cố. Làm sao để Biển Đông trở thành một vùng biển của hợp tác - hòa bình và hữu nghị, thay vì xung đột và chiến tranh; Làm sao để quan hệ hợp tác Việt - Mỹ trở thành động lực và mang đến cơ hội cho cả hai, chứ không phải tạo ra rào cản bởi một bên thứ 3; Làm thế nào để quan hệ hợp tác giữa Việt Nam với các siêu cường cũng như những thành viên còn lại của ASEAN bổ sung cho nhau và hướng tới mục tiêu hòa bình - ổn định - phồn vinh, thay vì theo phe này chống phe kia thực sự là một nhu cầu, đòi hỏi và bài toán đặt ra cho các nhà nghiên cứu và hoạch định chính sách. Vì thế, những hoạt động đối ngoại như chuyến thăm chính thức Hoa Kỳ của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc có ý nghĩa rất quan trọng. Chuyến thăm không chỉ thể hiện tính chủ động và năng động của các nhà lãnh đạo Việt Nam trong đối ngoại, mà còn mở ra những cơ hội mới để tăng cường hiểu biết và lòng tin, củng cố các hoạt động hợp tác cùng có lợi cho cả hai nước và khu vực. An ninh trên Biển Đông hay kinh tế - thương mại nên được xem như những cơ hội để hai bên đào sâu khả năng hợp tác, mang lại lợi ích thiết thực cho hai nước. Tài liệu tham khảo: [1]http://ift.tt/2qy22gY [2]http://ift.tt/2klycon [3]http://ift.tt/2rjyXTx [4]http://ift.tt/2spFgV0 [5]http://ift.tt/2rrA5qw Have a nice day!
0 Comments
Thông tin có thể lùi một năm đưa chương trình sách giáo khoa mới vào giảng dạy thí điểm ở các lớp đầu cấp so với Nghị quyết 88 của Quốc hội đang thu hút sự chú ý của dư luận. Ngày 31/5, bên hành lang kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa 14, phóng viên Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam đã tiến hành trao đổi với ông Phạm Tất Thắng, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa Giáo dục Thanh niên, Thiếu niên, Nhi đồng của Quốc hội về vấn đề này. Theo ông Phạm Tất Thắng, đối với để xuất này, cá nhân ông cũng như quan điểm của thường trực Ủy ban Văn hóa Giáo dục Thanh niên, Thiếu niên, Nhi đồng của Quốc hội với tư cách là cơ quan giám sát nội dung này là ủng hộ.
Lý giải việc ủng hộ lùi chương trình, Đại biểu Quốc hội Phạm Tất Thắng cho rằng: "Rõ ràng thời điểm mà chúng ta quy định, áp dụng chương trình và sách giáo khoa mới trong Nghị Quyết 88 của Quốc hội khóa 13 là năm học 2018 – 2019. Nhưng, quá trình chuẩn bị của ngành Giáo dục đã gặp một số khó khăn nhất định như việc chuyển giao giữa hai nhiệm kỳ Chính phủ, qua đó là hai nhiệm kỳ lãnh đạo Bộ cũ và mới nên có sự gián đoạn nhất định. Bản thân công việc chuẩn bị chương trình sách giáo khoa mới là một công việc rất là quan trọng, rất là khó và có nhiều việc nên chúng tôi quan điểm, việc chuẩn bị cần thiết phải kỹ lưỡng càng tốt. Việc thay đổi chương trình sách giáo khoa liên quan đến cả một thế hệ của chúng ta, thế hệ tương lai đất nước sau này nên chúng ta không thể nóng vội. Đặc biệt, chúng ta không thể chỉ căn cứ chỉ vào mốc thời gian mà trong các ưu tiên thì ưu tiên về chất lượng, ưu tiên về sự chuẩn bị kỹ lưỡng chương trình mới quan trọng nhất”. Vị Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa Giáo dục Thanh niên, Thiếu niên, Nhi đồng của Quốc hội cho biết thêm: “Chúng tôi rất ủng hộ Bộ với tư cách là cơ quan quản lý nhà nước về vấn đề này, là cơ quan trực tiếp chủ trì xây dựng, triển khai chương trình phổ thông tổng thể, cũng như chương trình sách giáo khoa mới nếu sự chuẩn bị chưa thật yên tâm, chưa thật thấu đáo nên lùi lại. Đặc biệt, các điều kiện để thực hiện chương trình sách giáo khoa mới chưa thật kỹ lưỡng, chưa thật yên tâm thì căn cứ vào điều kiện cụ thể Bộ có thể đề xuất cho Chính phủ để Chính phủ đề xuất với Quốc hội xem điều chỉnh thời gian áp dụng thí điểm chương trình sách giáo khoa mới cho các lớp đầu cấp. Tuy nhiên, đây đã là công việc xác định trong Nghị quyết 88 rồi, chúng ta mong muốn nếu việc chuẩn bị kỹ lưỡng, điều kiện cần thiết, để mà thực hiện chúng ta cũng xác định thời gian lùi phù hợp mà không đẩy chậm quá tiến độ Nghi quyết 88”. Cũng liên quan đến vấn đề này, ngày 30/5, bên hành lang kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa 14, phóng viên báo Điện tử Giáo dục Việt Nam đã trao đổi với Chủ nhiệm Ủy ban Giáo dục Thanh niên, Thiếu Niên, Nhi đồng – ông Phan Thanh Bình về thông tin lùi một năm thời gian đưa sách giáo khoa mới vào giảng dạy.
Ông Phan Thanh Bình cho biết: “Đến nay, Ủy ban vẫn chưa nhận được thông tin lùi thời gian từ phía Bộ Giáo dục và Đào tạo. Hôm thứ 7, ngày 27/5, Ủy ban Văn hóa Giáo dục Thanh niên, Thiếu niên, Nhi đồng của Quốc hội có làm việc với Bộ Giáo dục và Đào tạo. Tại buổi làm việc đó, Ủy ban có đánh giá về các mặt cả về quá trình chuẩn bị chương trình, chuẩn bị đội ngũ và trang thiết bị, Ủy ban cho rằng rất khó để triển khai giảng dạy vào năm 2018 – 2019. Khi làm việc vào thứ 7, Ủy ban có lưu ý nên cân nhắc thời gian áp dụng giảng dạy chương trình mới. Quyền quyết có lùi lại hay không là của Chính phủ, bên Ủy ban cho rằng với thời gian còn lại không kịp đâu, cần lùi lại đi. Tất cả những thông tin này sẽ được báo cáo với Quốc hội vào tháng 10”. Trước đó, Báo điện tử Giáo dục Việt Nam đưa tin ngày 30/5, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam đã có cuộc làm việc với Ban Chỉ đạo đổi mới chương trìnhsách giáo khoa giáo dục phổ thông của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Tại buổi làm việc, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo - ông Phùng Xuân Nhạ - Trưởng ban chỉ đạo cho biết, đến nay công tác biên soạn và các công việc chuẩn bị điều kiện thực hiện chương trình, sách giáo khoa đang được triển khai tích cực. Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam đánh giá cao sự chủ động, tích cực của Bộ trong triển khai thực hiện đổi mới chương trình, sách giáo khoa thời gian qua. Tuy nhiên, đổi mới là vấn đề lớn, phức tạp với khối lượng công việc nhiều và liên quan đến nhiều tổ chức, cá nhân. "Tinh thần là phải bảo đảm chất lượng trên hết. Chúng ta làm khẩn trương nhưng phải chắc chắn", Phó Thủ tướng đặc biệt lưu ý. Sau khi nghe ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ cho biết, ngành giáo dục đang tích cực, nỗ lực cao nhất để có thể triển khai chương trình, sách giáo khoa mới theo đúng thời gian Nghị quyết 88 của Quốc hội đưa ra. Nếu trong trường hợp chưa thực sự yên tâm về chất lượng và điều kiện thực hiện thì Bộ sẽ báo cáo Chính phủ để Chính phủ xem xét, báo cáo Quốc hội đề nghị điều chỉnh thời điểm bắt đầu áp dụng chương trình, sách giáo khoa mới từ năm học 2019 - 2020 để có thêm thời gian chuẩn bị cho công tác biên soạn, thẩm định, thực nghiệm các chương trình môn học và hoạt động giáo dục, biên soạn, thẩm định, thực nghiệm sách giáo khoa mới; Đồng thời có thêm thời gian tập huấn, bồi dưỡng giáo viên; huy động nhiều tổ chức, cá nhân tham gia biên soạn sách giáo khoa, góp phần thực hiện tốt chủ trương một chương trình nhiều sách giáo khoa. Have a nice day!Cụ thể, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định bổ nhiệm lại có thời hạn ông Đào Minh Tú giữ chức vụ Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Ông Đào Minh Tú sinh ngày 14/6/1964, có trình độ chuyên môn là Tiến sĩ kinh tế. Ông Tú được bổ nhiệm chức vụ Phó Thống Đốc Ngân hàng Nhà nước lần đầu vào tháng 5/2012. Trước đó, ông Tú từng giữ chức vụ Chánh Văn phòng Ngân hàng Nhà nước Việt Nam; Tổ trưởng Tổ Thư ký Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính, tiền tệ Quốc gia; Vụ trưởng Vụ thi đua khen thưởng. Như vậy, Ngân hàng Nhà nước đang có 5 Phó Thống đốc: Ông Nguyễn Đồng Tiến; ông Nguyễn Phước Thanh; ông Nguyễn Kim Anh; bà Nguyễn Thị Hồng; ông Đào Minh Tú Thủ tướng Chính phủ cũng quyết định bổ nhiệm lại ông Châu Văn Minh giữ chức vụ Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam. Đồng thời, Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm lại ông Trần Quốc Khánh, Thứ trưởng Bộ Công Thương, kiêm giữ chức vụ Chủ tịch Hội đồng cạnh tranh và ông Nguyễn Sinh Nhật Tân, Vụ trưởng Vụ Pháp chế, Bộ Công Thương kiêm giữ chức vụ Ủy viên Hội đồng cạnh tranh. Như vậy, Bộ Công Thương hiện có 5 Thứ trưởng gồm: Ông Hoàng Quốc Vượng; bà Hồ Thị Kim Thoa; ông Trần Quốc Khánh; ông Đỗ Thắng Hải; ông Cao Quốc Hưng Have a nice day!LTS: Nhân chuyến thăm chính thức Hợp chúng quốc Hoa Kỳ của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc theo lời mời của Tổng thống Donald Trump, Tiến sĩ Trần Công Trục gửi đến Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam bài bình luận của ông về sự kiện quan trọng này. Tòa soạn xin giới thiệu đến quý bạn đọc bài viết này và trân trọng cảm ơn Tiến sĩ Trần Công Trục! Văn phong và nội dung bài viết thể hiện quan điểm của tác giả. 1. Dư luận nói gì về chuyến thăm Hoa Kỳ đầu tiên của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc? Chuyến thăm chính thức Hợp chúng quốc Hoa Kỳ của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc theo lời mời của Tổng thống Donald Trump đang diễn ra, đã thu hút nhiều nhất sự quan tâm của dư luận trong và ngoài nước. Quan sát những ý kiến nhận xét, bình luận, dự đoán…trước và khi chuyến thăm đang diễn ra, chúng tôi thật sự đã bị “chìm ngập” trong biển thông tin, đồn đoán, đánh giá, nhận xét… khác nhau về chuyến thăm được cho là rất đặc biệt này. Báo chí nước ngoài nói rằng Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc đã giành “thắng lợi lớn” khi trở thành quan chức Đông Nam Á đầu tiên tới thăm Nhà Trắng dưới chính quyền của Tổng thống Mỹ Donald Trump.
Đây là chuyến đi Mỹ đầu tiên của nhà lãnh đạo chính phủ Việt Nam sau khi nhậm chức năm ngoái. Tờ South China Morning Post, Hồng Kông ngày 26/5 viết rằng: “Trọng tâm của ông Phúc nhiều khả năng là Biển Đông và thương mại. Ông ấy có thể gây ngạc nhiên cho ông Trump bằng đề nghị mua thêm vũ khí.”. Hãng tin Reuters ngày 26/5 cho hay: “Cuộc gặp với ông Trump vào thứ Tư tới là một thắng lợi lớn đối với Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, khi ông sẽ là lãnh đạo Đông Nam Á đầu tiên tới thăm Nhà Trắng dưới chính quyền mới.”. Reuters dẫn lời phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Mỹ Katrina Adams nói: “Mối quan hệ đối tác Việt – Mỹ là một thành tố quan trọng trong chính sách đối ngoại của Mỹ ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương.”. Hãng thông tấn này cũng trích lời một cựu quan chức cấp cao của Mỹ nói rằng ông Donald Trump “có thể phàn nàn với Thủ tướng Việt Nam về tình trạng thâm hụt thương mại”. Một bài viết có tựa đề “Quan hệ Việt Nam-Hoa Kỳ: Câu chuyện của 'Tự do' và 'Công bằng'" trên Báo Điện tử Chính phủ (VPNews) ngày 27/5 viết: “Điều phải đến đã đến. Tổng thống Donald Trump sẽ đến Việt Nam năm nay (2017) sau chuyến thăm của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc.”. Bài báo của VGP News có đoạn: “Hy vọng rằng quan hệ song phương Việt Mỹ không chỉ ấm lên cho Việt Nam hay cho Hoa Kỳ, mà cho cả vùng châu Á-Thái Bình Dương.". Từ Anh quốc, Tiến sĩ về quan hệ quốc tế Đoàn Xuân Lộc có bài phân tích về sự kiện này, đăng ngày 28/5 trên tờ Asia Times rằng: Xem xét những diễn biến trong quan hệ Việt-Mỹ từ khi ông Donald Trump trở thành Tổng thống đắc cử đến nay, và những trao đổi cấp cao sắp tới, có thể thấy rõ: Cả chính quyền của ông Donald Trump và Chính phủ Việt Nam đều coi trọng hợp tác Mỹ-Việt và sẵn sàng cải thiện điều này. Một trong những lĩnh vực đó là thương mại. Tuy nhiên, việc ông Trump rút khỏi TPP là một đòn mạnh đối với Việt Nam. Thêm vào đó, Việt Nam bị chính quyền ông Donald Trump liệt vào danh sách 16 nước bị điều tra về gian lận thương mại. Nhưng thay vì phản ứng tức giận, Việt Nam đã chọn thái độ hợp tác. Hồi tháng 3, Chủ tịch nước Trần Đại Quang nói với Đại sứ Mỹ Ted Osius rằng, Việt Nam ủng hộ thương mại tự do trên cơ sở bình đẳng và cùng có lợi. Phát biểu của ông Trần Đại Quang cho thấy Hà Nội lắng nghe quan ngại của ông Donald Trump về sự bất cân đối thương mại và sẵn sàng làm việc với chính quyền của ông để làm cho thương mại trở nên cân bằng và cùng có lợi. Việt Nam chọn lập trường như vậy vì, tiếp cận Mỹ - thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam, có tầm quan trọng cấp thiết đối với nền kinh tế dựa vào xuất khẩu. Trong năm 2016, kim ngạch thương mại Việt-Mỹ là 46,8 tỷ đôla, trong đó Việt Nam xuất sang Mỹ tới 38,1 tỷ đôla. Cũng năm 2016, kim ngạch thương mại Việt-Trung là 71 tỷ đôla, song Việt Nam nhập từ nước láng giềng khổng lồ tới 50 tỷ đôla. Điều quan trọng hơn là so với thương mại Việt-Trung, thương mại Việt-Mỹ có tính bổ sung hơn và vì vậy có lợi hơn. Do đó Tiến sĩ Đoàn Xuân Lộc cũng nhận xét rằng, thương mại sẽ đứng đầu trong nghị trình của ông Nguyễn Xuân Phúc khi gặp ông Donald Trump. Vị tiến sĩ cho rằng một vấn đề quan trọng không kém sẽ được bàn thảo là tranh chấp Biển Đông. Tháng 3 năm nay, Chủ tịch nước Trần Đại Quang của Việt Nam nói với Đại sứ Osius của Mỹ rằng: Việt Nam hoan nghênh sự hợp tác mạnh mẽ hơn của Mỹ với các nước trong khu vực để duy trì tự do hàng hải và hàng không, ủng hộ giải quyết tranh chấp thông qua các biện pháp ngoại giao và đối thoại trên cơ sở luật pháp quốc tế.
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc có lẽ sẽ nhắc lại thông điệp này khi hội đàm với Tổng thống Donald Trump hôm 31/5. Tuy nhiên, Tiến sĩ Lộc chỉ ra rằng, do chuyến thăm của ông Nguyễn Xuân Phúc diễn ra vào lúc ông Donald Trump đang gặp nhiều vấn đề nghiêm trọng, thật khó nói chắc chắn liệu ông Donald Trump có ở vào vị trí thuận lợi để đạt được những đột phá như vậy hay không. Trong thông báo về chuyến thăm của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, Nhà Trắng gọi Việt Nam là một trong những đối tác quan trọng của Hoa Kỳ ở Đông Nam Á. Theo các nhà phân tích, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc sẽ phải chứng minh được điều này trong chuyến công du Mỹ tuần tới. Ông Nguyễn Xuân Phúc sẽ là nhà lãnh đạo Đông Nam Á đầu tiên tới Nhà Trắng kể từ khi Tổng thống Donald Trump lên nắm quyền vào tháng 1 vừa qua. Chi tiết này có thể gây ngạc nhiên, nhưng giới quan sát và các nhà phân tích cho rằng: Đây là nhờ các nhà lãnh đạo Việt Nam đã chủ động đánh tiếng bày tỏ mong muốn kết nối với tân chính quyền Mỹ, bất chấp châu Á không mấy được chú ý trong chính sách đối ngoại của Tổng thống Donald Trump. Hai nước cựu thù đã trở thành đối tác chiến lược trong bối cảnh vai trò của Việt Nam trở nên quan trọng hơn trong chính sách xoay trục sang châu Á của chính phủ Tổng thống Obama, trong khi Trung Quốc ngày càng bành trướng và phô trương sức mạnh trên Biển Đông. Khi ông Donald Trump lên nắm quyền, châu Á ít khi được nhắc đến trong chính sách đối ngoại của chính quyền mới. Ông Donald Trump đã gạt sang bên chính sách tái cân bằng lực lượng sang châu Á của Tổng thống tiền nhiệm, đồng thời rút Mỹ ra khỏi Hiệp định Đối tác thương mại xuyên Thái Bình Dương (TPP). Và có những dấu hiệu cho thấy, Washington không mấy thiết tha với các vấn đề Biển Đông. Việt Nam và các đồng minh cũng như đối tác của Mỹ trong khu vực bày tỏ lo lắng, không rõ chỗ đứng của mình trong chính sách đối ngoại của Tổng thống Donald Trump ở đâu. Giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng thuộc Đại học George Mason ở Washington nhận định: Việt Nam là “một con bài quan trọng trong cấu trúc an ninh đa phương trong khu vực” của Mỹ, nhất là trong bối cảnh Philippines dưới quyền Tổng thống Rodrigo Duterte tìm cánh lánh xa Mỹ và xích lại gần hơn với Trung Quốc. Tuy nhiên ông Donald Trump cần được thuyết phục về tầm quan trọng của Việt Nam. Các phụ tá của ông Donald Trump có thuyết phụ được ông ấy coi Việt Nam là đối tác quan trọng hay không? Còn ông Nguyễn Xuân Phúc có thể giải thích cho ông Donald Trump, hoặc đưa ra những quyền lợi gì để cho thấy rằng: việc coi Việt Nam là một đối tác quan trọng là phù hợp với quyền lợi của Mỹ cả về phương diện chiến lược và phương diện kinh tế? Giáo sư Carl Thayer thuộc Đại học New South Wales ở Australia nhận định: Để đảm bảo là đối tác quan trọng của Mỹ, Việt Nam phải tham gia danh sách các đối tác với tinh thần xây dựng của Mỹ, trong đó Singapore là đối tác số 1. Nhưng Việt Nam hiện nay có lẽ gần với Hoa Kỳ hơn so với 2 đồng minh có hiệp ước với Mỹ, là Thái Lan và Philippines… 2. “Một lời vâng tạc đá vàng thủy chung”… Chuyến thăm lịch sử này đang diễn ra tại đất nước cờ hoa. Chưa có thông tin cụ thể chi tiết về kết quả đạt được. Tuy nhiên, suy ngẫm về những ý kiến nhận xét nói trên, chúng tôi tin rằng mối quan hệ đó vẫn được tiếp tục duy trì và phát triển lành mạnh, cho dù có thể còn gặp một số trở ngại tức thời. Đặc biệt là căn cứ vào thành quả của quan hệ đối tác toàn diện giữa Mỹ và Việt Nam được các nguyên thủ quốc gia của cả hai nước đã phấn đấu không mệt mỏi để tạo lập một cách hợp pháp trong khuôn khổ của Hiến pháp của 2 Nhà nước pháp quyền.
Niềm tin đó không viển vông mà là sự thật, bởi nó xuất phát từ 3 yếu tố: Thứ nhất, quan hệ đó bắt nguồn từ lợi ích chính đáng và bình đẳng của cả hai nước, cho dù Việt Nam là một nước yếu hơn về kinh tế, an ninh, quốc phòng so với Hoa Kỳ. Nhưng, Việt Nam có vị trí không thể không tính đến trong tranh chấp địa- chính trị, địa – kinh tế đang diễn giữa các siêu cường trong phạm vi khu vực và thế giới từ trước cho đến nay. Thứ 2, quan hệ này là kết quả của ý chí, nguyện vọng của đại đa số người dân Mỹ và Việt Nam, được gây dựng bằng máu xương của hàng vạn, hàng vạn người Việt - Mỹ, trải qua những thăng trầm lịch sử thời Chiến tranh Lạnh. Nhưng thật may mắn, đúng như câu Kiều mà Phó Tổng thống Mỹ Joe Biden đã “lẩy” trong buổi tiệc chiêu đãi Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng tối 7/7/2015 tại Bộ ngoại giao Mỹ: “Trời còn để có hôm nay, Nguyên văn lời ông Joseph Biden: "Thank heaven we are here today, Thứ 3, quan hệ Mỹ-Việt là quan hệ hợp hiến, hợp pháp. Quan hệ đó đã được hợp thức hóa bằng những thủ tục pháp lý cần thiết giữa 2 Nhà nước độc lập, có chủ quyền. Nó là kết quả của niềm tin chiến lược. Chúng tôi rất tâm đắc và khâm phục khi nghe Tổng thống Barack Obama kết thúc phát biểu của mình trong chuyến thăm chính thức Việt Nam năm ngoái bằng cách lẩy Kiều: “...Và trong nhiều năm tới kể từ bây giờ, khi ngày càng có nhiều người Việt Nam và Mỹ đang học tập với nhau; đổi mới sáng tạo và kinh doanh với nhau; cùng chung tay vì an ninh của chúng ta, thúc đẩy nhân quyền và cùng nhau bảo vệ hành tinh của mình … tôi hy vọng bạn hãy nhớ lại thời điểm này và ấp ủ hy vọng từ tầm nhìn mà tôi đã đề ra ngày hôm nay. Hay, nếu tôi có thể nói một cách khác – mượn lời của Truyện Kiều mà các bạn đều biết: “Rằng trăm năm cũng từ đây, “Của tin” ở đây chính là niềm tin chiến lược được xác định bởi cam kết hợp pháp giữa 2 quốc gia. Bất kỳ ai khi kế tục vai trò lãnh đạo quốc gia đều có nghĩa vụ thi hành, không có quyền tự ý thay đổi, nếu Cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất chưa có ý kiến thay đổi theo đúng thủ tục pháp lý. Chính vì vậy, cuộc gặp gỡ cấp cao nhân chuyến thăm lịch sử này sẽ là sự khẳng định cam kết đó. Bởi vì: “Đã lòng quân tử đa mang, Và vì vậy, chúng ta có thể hy vọng chứng kiến cuộc gặp giữa Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc và Tổng thống Donal Trump sẽ là một cuộc hội ngộ, tương phùng giữa những chính nhân quân tử! Have a nice day!Ngày 30/5, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam đã có cuộc làm việc với Ban Chỉ đạo đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Tại buổi làm việc, Bộ trưởng Bộ giáo dục và Đào tạo – Phùng Xuân Nhạ - Trưởng ban chỉ đạo cho biết, đến nay công tác biên soạn và các công việc chuẩn bị điều kện thực hiện chương trình, sách giáo khoa đang được triển khai tích cực. Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam đánh giá cao sự chủ động, tích cực của Bộ trong triển khai thực hiện đổi mới chương trình, sách giáo khoa thời gian qua. Tuy nhiên, đổi mới là vấn đề lớn, phức tạp với khối lượng công việc nhiều và liên quan đến nhiều tổ chức, cá nhân.
Trong quá trình dự thảo và lấy ý kiến góp ý rộng rãi của các tầng lớp nhân dân, có những quan điểm khác nhau, trái chiều thì phải lắng nghe, chắt lọc để tiếp thu, đồng thời giải thích, tuyên truyền, tạo sự đồng thuận của xã hội. "Tinh thần là phải bảo đảm chất lượng là trên hết. Chúng ta làm khẩn trương nhưng phải chắc chắn", Phó Thủ tướng đặc biệt lưu ý. Sau khi nghe ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Nhạ cho biết, ngành giáo dục đang tích cực, nỗ lực cao nhất để có thể triển khai chương trình, sách giáo khoa mới theo đúng thời gian Nghị quyết 88 của Quốc hội đưa ra. Nếu trong trường hợp chưa thực sự yên tâm về chất lượng và điều kiện thực hiện thì Bộ sẽ báo cáo Chính phủ để Chính phủ xem xét, báo cáo Quốc hội đề nghị điều chỉnh thời điểm bắt đầu áp dụng chương trình, sách giáo khoa mới từ năm học 2019 - 2020 để có thêm thời gian chuẩn bị cho công tác biên soạn, thẩm định, thực nghiệm các chương trình môn học và hoạt động giáo dục, biên soạn, thẩm định, thực nghiệm sách giáo khoa mới; Đồng thời có thêm thời gian tập huấn, bồi dưỡng giáo viên; huy động nhiều tổ chức, cá nhân tham gia biên soạn sách giáo khoa, góp phần thực hiện tốt chủ trương một chương trình nhiều sách giáo khoa.
Xoay quanh ý kiến của Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ tiến tới xóa bỏ biên chế trong giáo dục thay bằng hợp đồng có vào có ra nhằm tăng tính cạnh tranh và nâng cao thu nhập của giáo viên, ngày 30/5, bên lề kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa 14, phóng viên Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam đã có cuộc trao đổi với nghệ sĩ ưu tú Dương Minh Ánh, Hiệu trưởng trường Cao đẳng Nghệ thuật Hà Nội, Đại biểu Quốc hội đoàn Hà Nội. Theo bà Dương Minh Ánh: "Về vấn đề này, cần nhìn nhận ở từng bậc học khác nhau. Quan điểm của tôi, riêng bậc đại học thì xu hướng chung trên thế giới là tự chủ. Điều này, thế giới họ làm lâu rồi, còn ta đang thực hiện. Tôi đi khảo sát ở nhiều tỉnh thành, việc xóa hợp đồng chuyển sang bên chế có gặp một số vấn đề bất cập. Đối với các trường đại học lớn thì không thành vấn đề nhưng mà đối với các trường đại học ở từng địa phương, đặc biệt đại học thuộc tỉnh nơi có điều kiện kinh tế khó khăn thì rất khó để tự chủ".
Bà Dương Minh Ánh phân tích: "Lý do, các trường đại học ở địa phương lượng sinh viên chủ yếu nằm trong diện chính sách. Các sinh viên đi học nhận được ưu đãi của nhà nước đối về học phí. Chính vì thế nguồn thu các trường không cao nên rất khó khăn để tự chủ. Vì vậy, bỏ biên chế trong Đại học cần thiết phải nghiên cứu kỹ về đối tượng các trường ở khu vực các vùng khó khăn này". Riêng về bậc học mầm non và phổ thông vị đại biểu Quốc hội này góp ý: "Tôi cho rằng, ở nhiều nước trên thế giới thì nhà nước vẫn phải đảm bảo việc học phổ thông. Chính sách bỏ biên chế sang hợp đồng là vấn đề rất lớn ảnh hưởng đến miếng cơm manh áo của rất nhiều nhà giáo. Đặc biệt, các giáo viên ở vùng sâu, vùng xa thì các trường không thể tự chủ để có thể chi trả đảm bảo cuộc sống của họ. Theo tôi, việc này cần phải cân nhắc kỹ. Còn nếu thực hiện thì chưa nên thực hiện vội vàng". Cũng liên quan đến vấn đề này, trao đổi với báo chí, Phó Giám đốc Đại học Quốc gia Hà Nội – ông Lê Quân, Đại Biểu Quốc hội (đoàn Hà Nội) cho biết: “Chúng ta không nên nhìn nhận hợp đồng lao động là một cái gì đó quá xấu. Vì thực tế, biên chế cũng là một loại hợp đồng thỏa thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động. Nhà giáo là người lao động có vị thế khác hơn, họ gắn bó với trường học và cần thiết sự ổn định trong hoạt động nghề nghiệp. Do đó, hợp đồng lao động theo hướng mới cũng cần được nghiên cứu để điều chỉnh phù hợp, đảm bảo sự gắn bó giữa người lao động là nhà giáo với nhà trường”.
Vị Đại biểu Quốc hội này lý giải thêm: “Trong giáo dục, hợp đồng lao động có từ năm 2012 trong Luật Viên chức. Giáo viên là viên chức cũng làm việc theo hợp động (có thời hạ, không có thời hạn, tập sự). Bản chất, tiến tới đây chúng ta xóa bỏ biên chế không phải vì giáo dục không được quan tâm nữa. Mà chúng ta phải hiểu, đây là cách làm để cởi trói cơ chế sử dụng đãi ngộ nhà giáo, tạo cho nhà giáo động cơ phấn đấu, tạo các đơn vị giáo dục có sự tự chủ lớn hơn”. Đại biểu Quốc hội Lê Quân cho rằng: “Xu thế tự chủ trong vấn đề hợp động đối với giáo dục đại học, giáo dục dạy nghề và nghề nghiệp, các đơn vị sự nghiệp có thu cần sự tự chủ cao hơn nữa trong việc tuyển dụng, sử dụng, trả lương và đãi ngộ. Không nên khép những người lao động là các viên chức giáo viên trả lương theo ngạch bậc mà nên trả theo năng lực”. Đối với giáo dục phổ thông, theo Phó Giám đốc Đại học Quốc gia Hà Nội: “Đây là các đơn vị mà nguồn thu có hạn nên cần phải cân nhắc. Vì nguồn thu thấp sẽ tác động đến quyền lợi của người lao động là giáo viên. Do đó, cần lựa chọn phương thức nào cho phù hợp, lộ trình thực hiện và chọn nơi thí điểm phải tính toán kỹ”. Một vấn đề có nhiều ý kiến lo ngại khi bỏ biên chế thì vị thế của giáo viên sẽ bị hạ thấp trong khi quyền lực của Hiệu trưởng lại cao nên xảy ra việc lạm quyền. Về việc này, ông Lê Quân có quan điểm ngược lại, ông cho rằng: “Việc lo lắng hiệu trưởng chuyên quyền do lối suy nghĩ khi xóa biên chế sang hợp đồng của giáo viên nhưng các quy định về quyền lực của Hiệu trưởng vẫn được giữ nguyên như hiện nay. Tuy nhiên, khi triển khai đổi mới thì chúng ta phải thay đổi các điều luật, các quy định, các điều lệ của trường, các quy định liên quan đến tổ chức cán bộ. Mọi thứ sẽ được tính toán để đảm bảo nguyên tắc trong trường học là phải dân chủ, minh bạch, công bằng”. Have a nice day!LTS: Lý giải việc ngày càng có nhiều học sinh giỏi, cô giáo Thuận Phương cho rằng chủ yếu do tâm lý "sính thành tích" của phụ huynh và nhà trường. Theo đó, các phụ huynh thường cho con đi học thêm để được thầy cô giáo nâng đỡ giúp con có một hồ sơ đẹp nhằm chạy vào trường điểm. Tòa soạn trân trọng gửi đến độc giả bài viết. Mới đây, Phó Giáo sư Văn Như Cương - Chủ tịch Hội đồng quản trị Trường Trung học cơ sở Lương Thế Vinh (Hà Nội) cho biết, trong khoảng 4 nghìn hồ sơ nộp về trường để xét tuyển vào lớp 6 thì có tới 1 nghìn hồ sơ đạt điểm 10 cả 2 môn Toán và Tiếng Việt suốt 5 năm tiểu học. Do nhà trường chỉ lấy khoảng 6 trăm em nên phải xét đưa ra tiêu chí phụ là các giải thưởng văn hóa, thể thao để chọn lọc. Nhưng cứ 10 thí sinh đăng ký vào trường thì 3 em có giải thi học sinh giỏi cấp trường, cấp quận, thi Toán, tiếng Anh qua mạng, thể dục thể thao, giấy chứng nhận ngoại khóa… Trong số những điểm 10 và những giấy chứng nhận kia có ai đảm bảo được có bao nhiêu điểm 10, bao nhiêu giấy chứng nhận là đích thực? Chuyện “chạy điểm, chạy giải thưởng” cho học sinh không chỉ xuất phát từ phụ huynh mà chính nhà trường và giáo viên cũng đã và đang trực tiếp ra tay làm nên những thành tích ảo này.
Gửi con học thêm Cho con đi học thêm để tăng cường kiến thức nhưng vẫn có không ít phụ huynh lại có mục đích “cao cả” hơn đó là có được một hồ sơ đẹp để con dễ dàng vào học ở ngôi trường chuẩn. Một đồng nghiệp của tôi dạy lớp 5 kể lại rằng: “Có phụ huynh đến nhà gửi con học thêm nhưng đề nghị thẳng thừng con tôi đã 4 năm đạt học sinh giỏi xuất sắc. Năm này, gia đình muốn con cũng được như thế để có thành tích xin vào học ngôi trường điểm”. Sau khi sát hạch, cô bạn đồng nghiệp nói lực học của cậu bé ấy chỉ ở hạng trung bình bởi kiến thức lớp dưới nắm chưa vững. Qua việc tìm hiểu, cô bạn tôi mới biết 4 năm học trước đây phụ huynh cũng gửi con cho cô giáo chủ nhiệm dạy kèm cả ngày. Và vì thế, kết quả học sinh xuất sắc chỉ như món quà giáo viên dùng trả ơn lại phụ huynh chứ thực ra với sức học như thế em chỉ đủ mỗi năm lên một lớp. Không ít phụ huynh lại dùng quà cáp để thăm hỏi giáo viên và chẳng ngần ngại đặt thẳng vấn đề: “Tôi làm khuyến học luôn phát thưởng cho học sinh giỏi mà con mình không có thấy quê lắm. Gia đình tôi cũng muốn nở mày nở mặt với xóm làng một chút…”. Nhà trường muốn thành tích Theo quy định, giáo viên có học sinh giỏi cấp huyện thị trở lên sẽ được tính như một sáng kiến kinh nghiệm. Nhà trường có nhiều giải học sinh giỏi, trường cũng có tiếng vang. Bởi thế, sau khi chọn được “gà nòi” để huấn luyện, thầy cô bắt đầu cuộc hành trình đi tìm giải thưởng cùng học sinh. Cũng phải nói, ngoài một số giáo viên may mắn có được những em học sinh giỏi thật sự thì việc cầm chắc trong tay những giải thưởng chỉ còn là thời gian. Bên cạnh đó, vẫn có không ít thầy cô tìm hoài vẫn không có được nguồn. Muốn có giải, họ đành cậy nhờ vào những yếu tố bổ trợ khác. Chẳng hạn, một số giáo viên chẳng biết đã làm cách gì mà có được những dạng đề na ná trong đề thi nên việc học sinh không thật sự giỏi nhưng lại đạt điểm cao ở những kì thi học sinh giỏi cũng chẳng còn là chuyện hiếm. Một số trường học khác lại khuyến khích thầy cô lập nick hỗ trợ học sinh giải toán, tiếng Anh để tham dự thi violympic. Không ít giáo viên đã miệt mài làm thay học trò qua các vòng để đủ điều kiện đi thi. Ngoài ra, thầy cô phải tải đề trên mạng, xin đề các vùng miền khác đã thi trước để ôn luyện cho các em theo kiểu học tủ. May mắn khi vào phòng thi, em nào trúng được gói đề ấy xem như cơ hội đỗ chiếm trọn 100%. Nhờ thế, mỗi đợt thi violympic toán, tiếng Anh có trường đỗ tới vài chục em một đợt. Có thể nói chính phụ huynh và nhà trường đang vì một chữ “danh” để lao vào cuộc “chạy điểm, chạy trường”. Điều này chứng tỏ chúng ta đang đánh đổi những giá trị đích thực để lấy về “hư danh’. Tôi chợt nhớ đến câu nói nổi tiếng của bà Louise nữ tác giả người Mỹ (top 100 nhân vật có ảnh hưởng tâm linh lớn nhất thế giới) rằng: “Khi chúng ta lấy thứ gì đó không phải của mình, chúng ta hầu như luôn mất đi thứ đáng giá hơn”. Have a nice day!Được biết, từ năm 1992, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo - Trần Hồng Quân (nay là Chủ tịch Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam) cùng cán bộ của Bộ Giáo dục và Đào tạo từng xây dựng chủ trương bỏ công chức, viên chức thay đổi bằng chế độ hợp đồng, giảng dạy và nghiên cứu khoa học. Về việc cần thiết thay đổi cơ chế từ biên chế sang hợp đồng được các nhà làm giáo dục những năm 1991 - 1992 lí giải: Vào thời điểm đó, cơ chế quản lí, sử dụng cán bộ giáo dục đại học khi đó bộc lộ nhiều điểm lạc hậu không phát huy hết tiềm năng cả đội ngũ và từng cá nhân, không kích thích sự phấn đấu trong chuyên môn, gây tâm lí dựa dẫm, cách làm việc tắc trách; tạo ra sự quản lý khép kín, xơ cứng, thiếu mềm dẻo linh hoạt, không sàng lọc được dễ dàng và thường xuyên những người yếu kém, làm cho biên chế ngày càng đầy ứ, cồng kềnh, hết khả năng tiếp nhận lớp trẻ.
Cơ chế đó ngày càng tỏ ra không thích hợp, thậm chí còn cản trở công cuộc đổi mới của ngành giáo dục cũng như công cuộc đổi mới toàn xã hội. Thực tiễn đòi hỏi chúng ta phải đổi mới cơ chế quản lí, sử dụng cán bộ giáo dục đại học. Để phù hợp với chủ trương đổi mới quản lí kinh tế xã hội được khẳng định tại Đại hội Đảng lần thứ VI và VII, để phục vụ yêu cầu cải cách quy trình, nội dung và phương pháp đào tạo ở đại học, chúng ta cần xây dựng cách quản lý, sử dụng cán bộ giáo dục theo hướng: Tăng quyền tự quản cho trường đại học, tạo sự quản lí mềm dẻo, linh hoạt, sự tự sàng lọc dễ dàng, thường xuyên những người yếu kém, giảm nhẹ gánh nặng biên chế và mở rộng cửa cho những sinh viên ưu tú đi vào con đường khoa học. Tạo quyền tự chủ cho người cán bộ giáo dục, phát huy tiềm năng của từng người để người giỏi được giảng dạy nhiều hơn và ở nhiều trường khác nhau, do đó, có thu nhập cao và đời sống khá, thu hút các cán bộ khoa học kĩ thuật, các nhà quản lý, kinh doanh giỏi... ngoài xã hội tham gia giảng dạy ở các trường đại học. Chế độ hợp đồng giảng dạy và nghiên cứu khoa học là cách quản lí và sử dụng cán bộ giáo dục phù hợp với các phương hướng đã nêu. Cách thực hiện kí hợp đồng Nghị định 135/HĐBT ngày 28/1/1992 của Hội đồng Bộ trưởng đã khẳng định việc thực hiện chế độ hợp đồng trong nghiên cứu khoa học. Bộ đã phổ biến, hướng dẫn các trường đại học, các Viện nghiên cứu thuộc Bộ thực hiện kí hợp đồng nghiên cứu từ năm học 1992 – 1993. Theo nguồn tin riêng của Báo điện tử Giáo dục Việt Nam, các nhà làm giáo dục những năm 1991 – 1992 đã đưa ra một số ý kiến tổng quát xung quanh chế độ hợp đồng giảng dạy. Đó là: Hợp đồng giảng dạy ở trường đại học là bản thỏa thuận giữa người trực tiếp giảng dạy với hiệu trưởng trường đại học về yêu cầu chuyên môn và điều kiện giảng dạy, về quyền và nghĩa vụ mỗi bên trong việc giảng dạy đại học, cao học và nghiên cứu sinh có hợp đồng dài hạn và ngắn hạn, có hợp đồng một phần thời gian và hợp đồng toàn thời gian, có hợp đồng trách nhiệm… Thứ nhất, thực hiện chế độ hợp đồng giảng dạy là tạo điều kiện để cá nhân người cán bộ giáo giảng dạy nghiên cứu có toàn quyền quyết định khối lượng công việc nhận làm, mức thu nhập của bản thân và chịu trách nhiệm về chất lượng giảng dạy, đào tạo, nghiên cứu khoa học, về thời hạn hoàn thành công việc. Thực hiện chế độ hợp đồng giúp cho cơ sở đào tạo đại học – với tư cách người nêu ra yêu cầu của việc đào tạo (số lượng, chất lượng, các ngành, nghề đào tạo…) được toàn quyền lựa chọn những người ưu tú, các thầy giáo giỏi, các nhà khoa học, các nhà quản lý kinh doanh giỏi…để kí hợp đồng. Do đó, chất lượng đào tạo có điều kiện để nâng lên. Quản lý và sử dụng cán bộ giảng dạy theo chế độ hợp đồng giảng dạy và nghiên cứu khoa học gắn với việc tổ chức sắp xếp lại các trường đại học. Lúc đó, ở các trường công lập chỉ còn một bộ phận nhỏ (chủ yếu là bộ khung của bộ máy hành chính, giảng dạy của nhà trường) là thuộc biên chế cơ hữu. Đại đa số các cán bộ giảng dạy cũng như nhân viên trong trường sẽ chuyển từ chế độ biên chế suốt đời sang chế độ hợp đồng giảng dạy có thời hạn. Việc làm, thu nhập, đời sống của họ gắn chặt với việc hoàn thành nhiệm vụ giảng dạy của họ trong năm học trước. Chế độ hợp đồng giảng dạy cho phép luôn luôn tạo được sự tương ứng giữa khối lượng công việc giảng dạy với số lượng cán bộ giảng dạy cần thiết, tạo điều kiện đánh giá thường xuyên chất lượng giảng dạy của từng cá nhân, tạo khả năng sàng lọc hàng năm. Do đó kích thích sự vươn lên của từng cá nhân cán bộ giảng dạy để khẳng định vị trí của mình trong giảng dạy và nghiên cứu. Đây chính là nguồn động lực tự thân của từng người cũng như cùa toàn bộ đội ngũ. Thực hiện chế độ hợp đồng giảng dạy là thực hiện chế độ trả lương theo việc làm. Điều cơ bản về phía nhà trường là xác định đúng khối lượng công việc; có cơ chế đánh giá đúng chất lượng giảng dạy và đào tạo. Về phía cán bộ giảng dạy, điều quan tâm là mức lương trả cho họ có xứng đáng với chức danh với giá trị chất xám của họ kết tinh trong sản phẩm đào tạo hay không. Nói cách khác nó đòi hỏi xã hội phải đặt đúng vị trí, trả lại giá trị đích thực cho nghề thầy giáo không phải chỉ bằng lời lẽ động viện mà còn bằng giá trị vật chất tương ứng. Thứ hai, việc chuyển sang quản lý, sử dụng cán bộ giảng dạy đại học theo cơ chế hợp đồng giảng dạy là việc lớn và khó. Việc làm này đụng chạm đến nếp nghĩ, cách làm quen thuộc xưa nay đã ăn vào máu thịt của nhiều người, đụng chạm đến năng lực và đời sống từng cá nhân cán bộ giảng dạy. Việc làm này có ý nghĩa xã hội sâu sắc, vì cán bộ giảng dạy đại học là tầng lớp trí thức, là vốn quý đã được đào tạo cơ bản, có hệ thống. Mặt khác, việc làm này đòi hỏi một sự thay đổi cơ bản trong hàng loạt các quy định, chế độ gắn liền với cách quản lý, sử dụng hiện nay (từ chế độ làm việc đến cách trả lương, từ luật lao động, định mức làm việc…). Muốn thực hiện chế độ hợp đồng giảng dạy phải thực hiện sự đổi mới đồng bộ các luật lệ, quy định, các chế độ chính sách, các yếu tố về truyền thống tâm lý xã hội…phải tính đến các vấn đề do lịch sử để lại. Việc chuyển sang quản lý và sử dụng cán bộ giảng dạy theo chế độ hợp đồng là việc lớn, liên quan đến nhiều ngành và nhiều mặt của toàn xã hội. Do đó, cần được Nhà nước và xã hội đồng tình, ủng hộ bằng dư luận và bằng điều kiện tài chính. Để giải quyết các vấn đề đối với đội ngũ cán bộ giảng dạy khi chuyển sang chế độ hợp đồng, đòi hỏi một nguồn tài chính lớn, để giải quyết các vấn đề phát sinh như: đào tạo lại, giải quyết việc làm, trợ cấp xã hội, trả lương theo quy định cho số biên chế dư không được kí hợp đồng trong giai đoạn chuyển tiếp... Nguồn tài chính đó phải được Nhà nước cấp. Chỉ có như vậy mới tạo được bước chuyển tiếp êm đẹp, có thể vượt qua các khó khăn. Chế độ lương mới Việc chuyển sang quản lý và sử dụng cán bộ giảng dạy theo chế độ hợp đồng phải qua giai đoạn chuyển tiếp và đi từ thấp đến cao, thực hiện sự thay đổi ngày càng toàn diện hơn phù hợp với sự chuyển biến của xã hội và cải cách của ngành đại học, với việc sắp xếp lại mạng lưới trường và việc thực hiện chế độ lương mới. Giai đoạn đầu, khi các quy định về lao động và làm việc chưa kịp có sự thay đổi, có thể thực hiện chế độ hợp đồng đối với cán bộ giảng dạy trẻ mới tuyển, hợp đồng mời các chuyên gia giỏi ngoài trường tham gia giảng dạy và đào tạo, hợp đồng giảng dạy ngoài định mức đối với các cán bộ giảng dạy trong trường đã hoàn thành định mức. Giai đoạn hai, khi thực hiện chế độ lương mới sẽ tiến hành kí hợp đồng trách nhiệm với toàn thể cán bộ giảng dạy trong biên chế. Hợp đồng trách nhiệm xây dựng theo nguyên tắc: làm đủ định mức của chức danh lĩnh đúng mức lương quy định, nếu làm ít hơn hoặc cao hơn định mức sẽ lĩnh lương thấp hơn hoặc cao hơn mức lương quy định. Ở giai đoạn này, những người không được kí hợp đồng sẽ được nhận một mức lương quy định trong một thời hạn nhất định. Trong quãng thời gian đó họ có thể được đào tạo lại để chuyển sang công việc mới hoặc được đào tạo bổ túc để đủ năng lực giảng dạy. Hết thời hạn quy định nếu họ tiếp tục không được kí hợp đồng giảng dạy thì bản thân người cán bộ giảng dạy hoặc nhà trường giúp họ tìm việc làm khác ngoài công tác giảng dạy. Giai đoạn ba, thực hiện triệt để chế độ hợp đồng giảng dạy toàn thời gian với toàn thể cán bộ giảng dạy. Tuy nhiên, sau đó, chủ trương này đã không được thực hiện bởi một số nguyên nhân trong bài viết sau Báo điện tử Giáo dục Việt Nam sẽ chỉ ra lý do cụ thể. LTS: Trước thông tin Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trương tinh giản các cuộc thi dành cho giáo viên và học sinh phổ thông, thầy giáo Thiên Ấn cho biết nhiều giáo viên rất vui mừng, phấn khởi. Theo đó, thầy cũng đưa ra đề xuất nên giữ lại một số cuộc thi mang ý nghĩa thiết thực. Toà soạn trân trọng gửi đến cùng độc giả. Mới đây, Bộ Giáo dục và Đào tạo vừa gửi công văn tới các sở Giáo dục, trường phổ thông trực thuộc Bộ, yêu cầu tinh giản cuộc thi dành cho giáo viên và học sinh phổ thông. Theo đó, Bộ Giáo dục và Đào tạo giảm các cuộc thi cấp quốc gia; chỉ chọn một số cuộc thi cơ bản, gắn liền với nhiệm vụ chính trị của ngành để chỉ đạo tổ chức. Bộ đồng thời điều chỉnh chính sách đối với người dự thi; không lấy thành tích cuộc thi để xét thi đua đối với các địa phương, đơn vị… Trước đó, cuối năm 2016, Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Thị Nghĩa có công văn đến các Sở Giáo dục và Đào tạo về việc rà soát thực trạng các cuộc thi dành cho giáo viên và học sinh phổ thông đang được tổ chức nhằm loại bỏ những cuộc thi không thiết thực. Công văn nêu rõ, mục tiêu của việc rà soát là loại bỏ những cuộc thi không thiết thực, tạo áp lực với học sinh, giáo viên và các nhà trường, làm ảnh hưởng đến hoạt động dạy và học, gây băn khoăn cho giáo viên, học sinh, cha mẹ học sinh và xã hội. Các sở Giáo dục và Đào tạo cần tiến hành rà soát lại các cuộc thi đang được tổ chức tại các địa phương và báo cáo với Bộ Giáo dục và Đào tạo về những ưu điểm, hạn chế, khó khăn của giáo viên và học sinh khi tham gia các cuộc thi này cũng như đề xuất hướng triển khai trong thời gian tới.
Thời gian qua, báo chí có hàng loạt bài viết phản ánh, phân tích về ngành giáo dục đã tổ chức quá nhiều cuộc thi, hội thi gây áp lực, căng thẳng nặng nề cho thầy, cô giáo và học sinh dẫn đến tình trạng đối phó, hình thức, gượng ép, không thực chất… khi tham gia thi. Bộ Giáo dục và Đào tạo đã lắng nghe, thấu hiểu nỗi khổ, sự mệt mỏi của học sinh, các nhà trường, thầy cô giáo ở dưới cơ sở và có mấy công văn chỉ đạo kịp thời, đúng lúc. Hầu hết, cán bộ quản lý, giáo viên và học sinh ở các địa phương đều phấn khởi khi đón nhận thông tin này. Một cô giáo dạy tiểu học ở Thành phố Hồ Chí Minh đưa ra ý kiến: “Tôi nghĩ giảm các kỳ thi thì tốt chứ. Nhưng công văn thì vẫn chưa nêu cụ thể là giảm kỳ thi nào, nếu cứ chung chung như vậy tôi sợ rằng sẽ vẫn chỉ là chỉ đạo rồi để đó thôi và sẽ không hiệu quả. Vì vậy, tôi nghĩ Bộ nên xác định rõ kỳ thi nào không hiệu quả, đưa ra danh sách phải bỏ luôn.” (Báo Pháp luật Thành phố Hồ Chí Minh). Ở góc nhìn và trải nghiệm của một thầy giáo, cán bộ quản lý bậc trung học phổ thông, theo tôi, ngành giáo dục nên giữ lại và tổ chức tốt các cuộc thi, hội thi sau đây. Đối với giáo viên nên duy trì Hội thi giáo viên dạy giỏi và Hội thi giáo viên chủ nhiệm giỏi theo quy định hiện hành, cấp huyện 2 năm tổ chức 1 lần, cấp tỉnh 4 năm tổ chức 1 lần. Hội thi giáo viên dạy giỏi thực sự là một “sân chơi” bổ ích, cần thiết cho hoạt động chuyên môn, sư phạm nhà giáo.
Đến đó, các thầy cô được giao lưu, học hỏi, tự tin tỏa sáng, thể hiện khả năng dạy học của mình, có thêm kinh nghiệm, phương pháp tốt để tự trau dồi, nâng cao năng lực dạy học. Mặc dù, ở nơi này, nơi kia tổ chức chưa tốt, từng bị giáo viên phản ứng, chê trách nhiều nhưng “sân chơi” này vẫn được đánh giá cao, khó có thể phủ nhận giá trị và đóng góp của nó đem lại. Để Hội thi giáo viên dạy giỏi thật chất, thu hút được nhiều thầy cô giáo tự nguyện tham gia, Ban tổ chức cần chuẩn bị thật kỹ lưỡng, chọn lựa các Ban giám khảo đủ “tâm và tầm” hơn nữa. Hội thi giáo viên chủ nhiệm giỏi ra đời mới đây, năm 2012, kèm theo Thông tư 43 của Bộ Giáo dục và Đào tạo. 5 năm qua, nhiều địa phương cũng đã tổ chức khá thành công Hội thi này. Giáo viên có dịp hiểu biết thêm những văn bản, quy định về công tác chủ nhiệm, đồng thời thấu hiểu, yêu thương hơn những hoàn cảnh, số phận học sinh mà mình đã, đang dày công giáo dục, uốn nắn. Đây là một hội thi có nhiều ý nghĩa, ngoài việc khẳng định, tôn vinh còn đánh thức vai trò, trách nhiệm, kỹ năng của các thầy, cô giáo chủ nhiệm trong bối cảnh giáo dục đạo đức học sinh gặp nhiều khó khăn, thách thức. Đối với học sinh phổ thông, học sinh bậc trung học cơ sở, trung học phổ thông nên có 1 kỳ thi chọn học sinh giỏi cuối cấp do nhà trường tự tổ chức là đủ, xóa bỏ các kỳ thi chọn học sinh giỏi các khối lớp hoặc cuối cấp do Phòng, Sở, Bộ Giáo dục và Đào tạo làm lâu nay. Kỳ thi chọn học sinh giỏi chỉ duy trì ở cấp trường hằng năm nhằm phát hiện, bồi dưỡng, khen thưởng những học sinh có khả năng tốt về các môn học văn hóa. Không tổ chức rầm rộ các kỳ chọn học sinh giỏi cấp cao hơn, vừa chống được căn bệnh thành tích, luyện “gà nòi” vừa đỡ lãng phí, tốn kém kinh phí tiền bạc không nhỏ của Nhà nước và công sức, thời gian của giáo viên, học sinh. Còn học sinh dự thi học sinh giỏi cấp khu vực, quốc tế thì lấy nguồn từ học sinh xuất sắc của trường chuyên các tỉnh - nơi được đầu tư tốt, nơi hội tụ nhiều học sinh giỏi, rồi tổ chức tuyển chọn và bồi dưỡng trong thời gian ngắn như nhiều nước có nền giáo dục tiên tiến trên thế giới từng làm.
Cuộc thi khoa học - kỹ thuật dành học sinh trung học phổ thông nên tiếp tục duy trì hằng năm, gắn lý thuyết với thực hành, nhà trường với thực tiễn đời sống. Tổng kết các cuộc thi này trên phạm vi cả nước, ban tổ chức, ban giám khảo từng rất ngạc nhiên, bất ngờ trước những sản phẩm mang tính sáng tạo, hiệu quả cao của các em học sinh phổ thông dưới sự hướng dẫn của nhà trường, thầy cô giáo và có thể ứng dụng ngay vào cuộc sống. Cần lắm những cuộc thi mang tính ứng dụng, thực hành như thế, luôn khơi nguồn, khích lệ được khả năng sáng tạo, cải tiến của học sinh phổ thông trên mọi lĩnh vực. Ngoài hai kỳ thi, cuộc thi chính nói trên, các nhà trường, Phòng, Sở Giáo dục và Đào tạo, từng năm hoặc hai năm một lần nên chọn tổ chức một cuộc thi, hội thi thuộc về giáo dục kỹ năng sống, phù hợp và cần thiết với các em học sinh từng bậc học, từng địa phương, ví dụ như kỹ năng bơi, kỹ năng ứng xử, phòng chống các tệ nạn xã hội… là đủ. Tất nhiên, phải tổ chức cho nghiêm túc, bản bài, công tâm, khách quan, trung thực… thu hút được các nhà trường, các đối tượng giáo viên, học sinh hăng hái, tích cực tham gia. Trước hết, thể hiện ở tính trách nhiệm, nghiêm túc thật sự của ban tổ chức, ban giám khảo các cuộc thi, hội thi, đơn vị nào, em nào giỏi, tốt thì đánh giá giỏi, tốt. Còn đơn vị nào, em nào chưa được thì chấm điểm chưa được, tuyệt đối không chạy theo bệnh thành tích, nể nang, tình cảm cá nhân… Có vậy, các kỳ thi, hội thi cùng các giải thưởng mới giá trị, có tác dụng thi đua đúng nghĩa trong toàn ngành giáo dục. Have a nice day!Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch vừa ban hành Quyết định số 1852/QĐ-BVHTTDL công nhận 12 di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, trong số đó có Lễ hội Minh Thệ, thôn Hòa Liễu, xã Thuận Thiên, huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng. Từ “thệ” trong tên lễ hội “Minh Thệ” cũng có nghĩa như từ “thệ” trong “tuyên thệ”, tuy nhiên một số tài liệu gọi tên lễ hội này là “Minh Thề”. Nét độc đáo của Lễ hội Minh Thệ là người trong thôn từ 18 tuổi trở lên đều cùng nhau thề: "Ai dùng của công vào việc công xin thần linh ủng hộ, ai lấy của công dùng vào việc tư, cầu thần linh đả tử… làm tôi bất trung, làm con bất hiếu, xin thần linh tru diệt".
Khởi xướng Lễ hội Minh Thệ là Thái hoàng Thái hậu Vũ Thị Ngọc Toản thời nhà Mạc vào khoảng giữa thế kỷ 16, ban đầu có hơn 30 hoàng thân quốc thích, quan lại triều Mạc đóng góp tiền của, ruộng đất xây dựng chùa và soạn thảo Hịch văn Lễ hội. Hịch văn quy định người dân, không phân biệt giàu nghèo, đẳng cấp, chức tước cùng nhau thề nguyện không vì bất cứ lý do gì mà xâm phạm của công, không làm điều bất trung, bất hiếu, bất nghĩa, kẻ nào vi phạm sẽ bị thần linh trị tội. Kể từ khi Lễ hội Minh Thệ được khôi phục lại (năm 2003), những nét nhân văn cao đẹp của truyền thống làng xã ấy tuy được người dân hướng ứng song thật đáng buồn khi “Lễ hội Minh Thề: Chỉ có dân thề, quan không thề!”. [1] Những bức tranh biếm họa trên mạng xã hội về dòng xe ôtô ùn ùn chạy về Nam Định xin ấn Đền Trần hay chen chúc vay tiền Bà Chúa Kho và con đường vắng vẻ về Lễ hội Minh Thệ cho thấy sự phân hóa ý thức trong cư dân, đặc biệt là khối cán bộ, viên chức, công chức, thương nhân,… Tiếc thay sự phân hóa ấy lại theo chiều hướng xấu chứ không phải văn minh, tiến bộ. Xuất phát từ ý tưởng của tầng lớp quý tộc phong kiến, Minh Thệ là lễ hội dành cho những người làm quan thề “không vụ lợi, không tham ô, tham nhũng, không hách dịch với nhân dân, làm việc chí công vô tư”, nếu ai làm trái với lời thề sẽ bị trời tru đất diệt. Minh Thệ ngày nay chỉ có dân “thệ” quan không “thệ” hẳn phải có lý do “chính đáng” nào đó. Người ta có thể không sợ luật pháp, không sợ dư luận, càng không sợ dân nhưng nỗi ám ảnh sự trừng phạt của thánh thần thì nhiều người sợ, nhất là khi của cải chất đầy nhà, bồ nhí gửi nhiều chỗ. Giá như có một phép màu nào đó chuyển đền Trần, đền Bà Chúa Kho và lễ hội (đền) Minh Thệ về cùng một chỗ, người vi hành bắt buộc phải làm lễ tuần tự qua cả ba di sản quốc gia đó thì điều gì sẽ xảy ra? Liệu việc phải “Minh Thệ” có khiến khu tâm linh giả tưởng này biến thành “chùa Bà Đanh”. Vì không phải “Minh Thệ”, tức là không phải thề “làm tôi bất trung, làm con bất hiếu, xin thần linh tru diệt” nên có vị công chức không ngại làm cái việc vi hiến là đưa ca khúc "Tiến quân ca" - Quốc ca được ghi trong Hiến pháp từ năm 1946 - vào danh sách được phép phổ biến. Làm trái quy định của quốc gia liệu có thể gọi là “bất trung”, để ông, bà, cha, mẹ, anh, em, con, cháu… mang tiếng hát Quốc ca “chui” suốt bảy mươi năm liệu có phải bất hiếu? Cứ cho rằng những người liên quan ở cái Cục … ấy không “Minh Thệ” nên không bị “thần linh tru diệt” thì chẳng lẽ phải chờ đến khi người ta tiếp tục cấp phép phổ biến “Hịch tướng sĩ” hay “Bình Ngô đại cáo” thì lãnh đạo cấp trên mới “cấp phép” cho họ? Theo tin “hot” thì ông Cục ấy giờ đã về Văn phòng Bộ chờ việc mới, thế là hòa cả làng vì trên bảo xin lỗi thì đã “xin lỗi” rồi còn đòi gì nữa! Nói như Giáo sư Trần Hồng Quân, chẳng lẽ Văn phòng Bộ lại chính là “cái rọ an toàn” cho ông Cục trưởng và đồng sự? Không chỉ Bộ trưởng, Phó Thủ tướng, các vị dân biểu mà còn hầu như tất cả các phương tiện truyền thông đều vào cuộc mổ xẻ, chê bai “cả người lẫn Cục” nhưng người ta đã ở trong “rọ” thì đương nhiên là phải an toàn? Tiếc rằng có lẽ ông Cục trưởng chỉ mới học được câu “xin lỗi”, trong khi tiếng Việt còn câu “từ chức” thì ông và cộng sự chưa được học? Nhân nói về “cái rọ an toàn” mang tên “biên chế” cho cán bộ, công chức, viên chức, người viết chợt nhớ đến chuyện cô công chức Sở Xây dựng Thanh Hóa. Mới đây, nghe đại biểu Quốc hội Lưu Bình Nhưỡng, Ủy viên thường trực Ủy ban Về các vấn đề xã hội đề cập, rằng sau khi dư luận xầm xì cô này là bồ nhí của vị nguyên Bí thư tỉnh thì cô ấy bỏ công chức, bỏ sinh hoạt Đảng và hình như đã “chuyển sinh hoạt” sang New Zealand. Cả tỉnh Thanh, cả đội ngũ hùng hậu cán bộ làm công việc quản lý từ “trên” xuống “dưới” chẳng làm gì được một công chức, lại là cán bộ được quy hoạch làm Phó sở khi người ta giàu có bất thường, khi người ta tung hê tất cả rồi “lặn” một mạch qua tận quốc đảo nằm giữa Thái Bình Dương? Thế thì cái “rọ an toàn” ấy to cỡ nào, bền chắc thế nào mà công lý lại “botay.com”? Nếu ông Lưu Bình Nhưỡng không xới xáo lại thì liệu có phải “xuồng bị chìm” là do cô cựu công chức hoặc ông Bí nọ có tài hô phong hoán vũ? Lúc chuyện mới xảy ra, mấy ông “rỗi hơi” bảo cây ngay không sợ chết đứng, bác Bí cứ cấu cái móng tay (chưa bị … hỏng) cộng thêm tí nước bọt đưa cho người ta kiểm nghiệm “Đê Nờ A” hay “A Đê Nờ” gì đó là xong chuyện. Bây giờ có muốn cũng không được vì làm sao sang tận New Zealand mà lấy mẫu? “Người ta” tính toán hơn cả Gia Cát, đi trước những hơn mười bước, vuốt đuôi liệu có kịp? Từ xưa đến nay, cán bộ, công chức Việt Nam luôn “giàu có đúng quy trình”, người thì lao động “thối móng tay”, người thì “đổ mồ hôi, nước mắt”, người thì “buôn xe, nuôi lợn”, người khác lại được họ hàng , bà con kết nghĩa “giúp đỡ”. Thế nên 6 cái biệt thự tọa lạc tại khu đất vàng ở tỉnh miền ngược Lào Cai được ông Chánh (văn phòng) khẳng định là “bán đúng quy trình”? Cái quy trình ấy được Vov.vn tường thuật lời ông Chánh thế này: “Năm 2014, khi cả 6 lô đất được đưa ra đấu giá thì cũng chỉ có 5 người trúng, còn lại 1 lô không ai đấu; đến năm 2015 phải tổ chức đấu giá nốt theo mức giá cao hơn thì mới có chủ sở hữu”. [2] Sáu lô đất vàng mà chỉ có 5 người trúng đấu giá thì bà con tỉnh ấy quả là quá nghèo, nhưng mà nghèo thì tại sao đấu giá cao hơn lại có người trúng, hay là bà con không biết tỉnh nhà tổ chức đấu giá? Mỗi cái biệt thự ấy nghe đâu giá có vài tỷ, mà vài tỷ thì chỉ cần nuôi vài lứa lợn hoặc chỉ cần lao động “thối một ngón tay” là đủ, chả cần “thối” nhiều ngón vì phải để dành cho việc khác. Nói thế có làm chạnh lòng mấy bác nông dân nuôi lợn, trồng chuối hay mấy anh em phải chui xuống móc cống ở Sài Gòn thì xin lỗi các bác, các anh em, chỉ tại “người ta” khẳng định vậy nên biết vậy. Các bác muốn làm giàu thì đừng nên nuôi lợn kiểu cổ, đừng móc cống kiểu cổ, hãy khăn gói đến học cách nuôi lợn của bác cựu Giám đốc Y tế ở tỉnh Thanh, hay bác gì đó ở tận Bến Tre, cứ “lao động đến thối cả móng tay” là khắc có biệt thự, nhà lầu. Từ nhận định của vị giáo sư đáng kính về “cái rọ an toàn”, nhất là từ câu chuyện “gái nóng” hay “nóng gái” (chẳng biết từ “hot girl” mà báo chí để cập dịch thế là sai hay đúng?), rõ ràng “cái rọ an toàn” cho cán bộ, công chức, viên chức không phải là biên chế mà là thể chế. Có lẽ vì thế nên mới đây, bà Lê Thị Thủy, Phó chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương cho biết, Bộ Chính trị đã ban hành quy định về kiểm tra, giám sát tài sản của cán bộ thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý, trong đó bao gồm cả ủy viên Bộ Chính trị, thành viên Ban Bí thư. Con số nghe nói khoảng 1.000 người, nghĩa là cả ở Trung ương và địa phương. Bộ Chính trị đã quyết thì dân vui, dân tin, có điều dân hơi băn khoăn về ý kiến của bà Lê Thị Thủy: “Sau khi làm xong, Uỷ ban Kiểm tra Trung ương sẽ có thông cáo và công khai đầy đủ. Trên cơ sở đó các cơ quan báo chí thông tin rộng rãi và các tổ chức, cá nhân, nhân dân cũng biết có việc như vậy”. [3] Nói là băn khoăn vì chủ trương của Đảng, được nhắc lại trong bài viết “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra là dân chủ và thực hành dân chủ” đăng trên Tạp chí Cộng sản ngày 30/5/2017 thì Dân có tới bốn quyền, ba trong bốn quyền đó là “dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” chưa thấy nói tới. Mười mấy dự án đầu tư hàng chục nghìn tỷ “đắp chiếu” xong rồi nhân dân mới “biết có việc như vậy”, hơn 6.000 cây xanh ở Thủ đô bị triệt hạ xong dân cũng mới “biết có việc như vậy”, nhờ ông lão đánh cá phát hiện dân mới “biết có việc” bán đảo Sơn Trà bị băm nát… Vậy nên muốn phá bỏ cái “rọ an toàn” của cán bộ, đặc biệt là cán bộ cấp cao thì đừng ngại “dân làm, dân bàn, dân kiểm tra”, còn nếu mà cách ly dân thì cũng có nghĩa là tạo điều kiện xuất hiện một cái “rọ an toàn” mới, khó nhận diện hơn nhiều so với cái “rọ” mà Giáo sư Trần Hồng Quân đề cập. Tài liệu tham khảo: [1] http://ift.tt/2ri7e5D [2] http://ift.tt/2qxF0H0 [3] http://ift.tt/2ri1Uzt Have a nice day! |
AuthorWrite something about yourself. No need to be fancy, just an overview. Archives
June 2017
Categories |